Cách
đây hơn 2600 năm, trên thế gian này đã xuất hiện một bậc vĩ nhân giác
ngộ toàn vẹn dưới cội cây bồ Đề. Kỷ niệm ngày thành đạo, chúng ta cùng
nhau tưởng nhớ lại sự kiện trọng đại này của Đức bổn Sư.
Ngày đức Thế Tôn thành đạo mang lại
niềm khích lệ vô lượng, vô biên cho chư Thiên và loài người. Sự giác ngộ
vẹn toàn của Đức Phật đã tạo một niềm tin trong sáng, vững chắc vào Tam
bảo cho tăng ni và phật tử, nó giúp cho chúng ta tự tin vào chính mình
trong quá trình tu tập, hóa giải đau khổ, tìm đến con đường an lạc, giải
thoát.
Đức Phật thành đạo cũng phải trải qua
vô lượng a tăng tỳ kiếp, tinh tiến tu tập, hành Bồ tát Đạo, diệt trừ nội
ma, ngoại chướng. Nội ma chính là phiền não, khổ đau, kiến hoặc, tư
hoặc; là nguyên nhân dẫn đến sinh tử luân hồi. Ngoại chướng chính là nói
đến chướng duyên bên ngoài, đó là sự cám dỗ của ngũ dục thế gian. Tất
cả những thứ đó được kết thúc sau 49 ngày thiền định dưới cây đại thụ Bồ
Đề. Ngài đã thực sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, không còn bị sinh
tử luân hồi trói buộc, an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.
Sau khi chứng được quả vị Vô Thượng Bồ
Đề, đức Phật đã quyết định chuyển vận bánh xe chính pháp. Trong suốt
hơn 40 năm thuyết pháp độ sinh, đức Phật như một vị lương y đại tài, tùy
theo căn cơ, trình độ của chúng sinh mà nói ra vô lượng các pháp môn
tu. Pháp môn tuy nhiều nhưng không ngoài mục đích chuyển mê khai ngộ cho
tất cả chúng sinh. Vì mê là gốc khổ, ngộ là gốc vui, chuyển mê khai ngộ
là chuyển đổi tâm mê lầm thành tâm giác ngộ, đem lại cuộc sống an vui
cho nhân loại.
Đức Phật đã cho chúng ta thấy rõ mê là
gốc khổ, nó đã làm chu chúng sinh phải sống trong phiền não khổ đau,
sinh tử luân hồi lục đạo, tự trói chặt thân ngũ uẩn giả tạm của mình
bằng sợi dây vô minh tham ái. Vì thế trong kinh Bát Đại Nhân Giác, đức
Phật dạy rằng:
“Điều thứ hai phải nên giác ngộ
Ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu
Đều do tham dục dẫn đầu gây nên”.
Khổ đau chính là do chúng ta tự tạo ra
thì cũng chính chúng ta phải nỗ lực tinh tiến tu tập để diệt trừ nó đi.
Tự mình triệt phá vô minh tự mình dập tắt tâm tham dục, không ai có thể
làm thay chúng ta được.
Trải qua nhiều kiếp hành Bồ Tát đạo
cho đến khi thành Phật, Đức Thế Tôn luôn dùng tam từ bi bình đẳng để
giáo hóa chúng sinh, coi kẻ oán cũng như người thân, vượt qua mọi rào cản
tâm thương ghét, tự tại trước nghịch cảnh và thuận duyên. Trong kinh
Bát Đại Nhân Giác, đức Phật cũng dạy rằng:
“Lập nguyện lớn cầu vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sinh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi”
Đức Phật khi thuyết pháp độ sinh không
phải lúc nào cũng thuận duyên, có khi ngài cũng gặp những nghịch cảnh
do lòng đố kỵ của ngoại đạo tà giáo, hay lòng gang ghét của nội thân
quyến thuộc gây ra: như chàng Vô Não, người anh họ Đề Bà Đạt Đa… nhưng
ngài vẫn sống với tâm chân thường, thanh tịnh, tự tại không hề giao động
trước nghịch cảnh. Với tâm từ bi và trí tuệ sáng suốt, Ngài đã khéo léo
chuyển hóa những nghịch cảnh thành thuận duyên, đưa chúng sinh trở về
với chính pháp.
Thời đức Phật còn tại thế, có một hôm
đức Phật cùng với Tăng đoàn đến thuyết pháp ở một làng ngoại đạo. Thay
vì đón tiếp cung nghinh, họ kéo nhau ra xua đuổi chửi mắng đức Phật và
Tăng đoàn. Trước hoàn cảnh đó, tâm ngài vẫn an nhiên bất động như vàng
ròng gặp lửa vẫn giữ nguyên màu sắc. Thế mới biết:
“Chưa gặp lửa vàng thau một sắc
Gặp lửa rồi hai chất khác nhau
Vàng thì trước cũng như sau
Con thau thì lại sắc màu đổi thay”
Tâm Phật được ví như vàng, dù ở hoàn
cảnh nào cũng không hề thay đổi màu sắc. Khác với tâm của chúng sinh là
tâm vô thường, luôn thay đổi theo ngoại cảnh.
Trước những hành động vô lễ của ngoại
đạo đối với đức Phật và Tăng đoàn như thế, ngài A Nan không hài lòng,
liền bạch với đức Phật nên đi làng khác giáo hóa. Đức Phật hỏi ngài A
Nan: nếu Như Lai và Tăng Đoàn đến làng khác, họ cũng có những hành động
giống như thế thi đi đâu? ngài A Nan bạch rằng: Thầy trò chúng ta lại đi
nơi khác. Đức Phật mỉm cười nói với A Nan rằng: Không được. Như Lai thị
hiện ra đời là để cứu khổ ban vui cho chúng sinh, nơi này tâm họ còn u
mê, chưa hiểu ta, vì thế Như Lai cần phải trụ lại ở đây để thuyết pháp
giáo hóa họ tu tập. Đức Phật dạy đại chúng: Làm công việc lợi tha, giúp
đỡ chúng sanh cần phải có tâm kiên nhẫn:
“Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui”
Đức Phật thành đạo đã minh chứng cho chúng ta thấy rằng: mỗi chúng sinh đều có Phật tính. Như ngài đã từng
tuyên bố: Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Bằng chứng
cụ thể nhất là những đệ tự của ngài từ những dòng dõi quý tộc cho đến
những người căn tính ám độn như ông Bàn Đặc, thấp hèn như Ưu Ba Li - thợ
cắt tóc, tàn ác như Vô Não… dưới sự cảm hóa và hướng dẫn tu tập của đức
Phật, họ đều được giác ngộ, giải thoát. Điều này chứng minh cho tất cả
chúng sinh đều có Phật tính và đều có khả năng giác ngộ, giải thoát như
nhau, nếu hành trì, tu tập đúng với Chính pháp.
Trong quá trình tu tập, mỗi chúng ta
nên tâm niệm một điều rằng: để đi đến con đường giác ngộ giải thoát,
tiến đến quả vị Phật là một nhiệm vụ khó khăn nhất ở thời mạt pháp đối
với mỗi con người. Thuận duyên cũng nhiều nhưng nghịch duyên cũng không
phải là ít. Khi gặp thuận duyên, điều kiện tu tập tốt, chúng ta phải cố
gắng tinh tiến, không giải đãi, đắm nhiễm vào những lời khen, tán thán
mà sinh tâm kiêu mạn, làm mất hết công đức tu tập bấy lâu. Khi tâm đã
tiếp nhận những lời khen thì khi gặp những nghịch cảnh: người khác chê
bai, bài xích, nói xấu, chúng ta dễ sinh tâm buồn phiền, đau khổ, sống
trong vòng đối đãi, đây là đầu mối của sinh tử luân hồi. cho nên phải
biết:
“Nghe chê mà vội giận ngay
Thì lời sàm báng dễ hay lọt vào
Nghe khen lại vội mừng sao
Là mồi kẻ nịnh ngọt ngào đưa hơi”
Người tu hành phải luôn nhìn thẳng vào
sự thật, xem lại chính mình khi có lỗi, tu tập không đúng với chính
pháp, được người khác nhìn thấy chỉ bày thì không có gì phải buồn phiền,
sẵn sàng đón nhận để sửa chữa, và chính họ là những bậc thiện hữu tri
thức của chúng ta. Còn nếu như lời nói của họ vì tâm ganh ghét, đố kỵ,
ích kỷ thì chúng ta coi đây như là một sự thử thách xem mình tu tập kiên
nhẫn đến đâu. Con đường rải đá tuy gồ ghề, khi đi nó làm cho chân chúng
ta bị đau, nhưng mỗi bước đi nó sẽ vững chắc hơn, không làm chúng ta bị
sa ngã.
Người xưa đã nói:
“Làm nên sự nghiệp lẫy lừng
Phần nhiều trong lúc khốn cùng mà ra
Những kẻ đắc chí kiêu sa
Là cơ thất bại khó mà thành công”
Trong kinh đức Phật cũng dạy rằng:
“Người nào chịu đựng được những cảnh thuận nghịch của cuộc đời, mà tâm
vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an vui tự tại thì người đó là một
vị Phật trong tương lai”. Đây là ý nghĩa hết sức sâu sắc, vi diệu của
đạo Phật.
Kỷ niệm ngày đức Phật Thành đạo là dịp
để mỗi người con Phật chúng ta tưởng nhớ đến công đức cao dày của đức
Thế Tôn. Ngài là người đã khai sáng ra con đường bất tử, vô sinh cho chư
Thiên và loài người. Sự an lạc giải thoát luôn hiện hữu bên cạnh mỗi
chúng ta, nếu như chúng ta hành trì, tu tập đúng theo lời Phật dạy, giữ
gìn Giới luật, áp dụng cho mình một pháp môn tu phù hợp với căn cơ,
trình độ thì chắc chắn chúng ta sẽ có một cuộc sống an vui, sớm đi đến
lộ trình giác ngộ giải thoát.
DY Theo PGVN