| 08/07/2014, 05:13 pm |
Đức Phật và Phật Pháp
(Tintuc.OHO.vn) - Chúng
ta đều nhìn nhận rằng nội dung của đạo Phật không ở nghi lễ, triết học
hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống, trong cách ứng xử của bản
thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ
trụ. Nếu không nhờ những đặc trưng trên, có lẽ giáo lý đạo Phật khó vượt
thắng bao nhiêu luận thuyết của ngoại đạo trong xã hội Ấn Độ trước và
cùng thời với Đức Phật,
Gần đây, sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ
thuật đã tạo ra những khủng hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái,
về văn hóa, tâm lý, đạo đức ... Nhà Vật lý học Albert Einstein cho rằng :
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần
linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự
nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ
kinh nghiệm tổng thể, gồm mọi phương diện trên, trong cái nhất thể đầy ý
nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện ấy".
Con
người thời đại đã thông cảm và ca ngợi đạo Phật như thế. Còn đối với
hàng Thích tử, dẫu biết rằng học sơ trí thiển, cũng xin vận tâm chí
thành dâng lên cúng dường Đức Thích Tôn nhân mùa Phật đản.
Chúng
ta đều nhìn nhận rằng nội dung của đạo Phật không ở nghi lễ, triết học
hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống, trong cách ứng xử của bản
thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ
trụ. Nếu không nhờ những đặc trưng trên, có lẽ giáo lý đạo Phật khó vượt
thắng bao nhiêu luận thuyết của ngoại đạo trong xã hội Ấn Độ trước và
cùng thời với Đức Phật, và cũng khó tồn tại trong một chiều dài lịch sử
hơn 25 thế kỷ. Nổi bật trong lối sống, trong cách ứng xử đó, là tinh
thần khéo hành xử Trung đạo. Cuộc đời hoằng pháp độ sanh 49 năm của Đức
Phật đã thể hiện sự xóa bỏ nhị biên giữa các cặp phạm trù đối đãi "nhận
và khước từ", "nhớ và quên", "nói và không nói", "đi và dừng".
1. Đức Phật khước từ tất cả mà nhận tất cả
Khước từ những gì ?
- Khởi đầu là khước từ cung vàng điện ngọc, gia đình, địa vị, cuộc sống vương giả an nhàn …;
nói chung là khước từ dục lạc, là việc lập hạnh đầu tiên của người xuất
thế tục gia vì "đa dục là khổ". Người hành đạo phải thiểu dục tri túc,
chỉ giữ những vật cần thiết để duy trì mạng sống mà hành đạo.
- Đến lúc qua bên kia bờ sông A-nô-ma, Đức Phật lại cạo bỏ râu tóc (thể hiện chấm dứt phiền não), gởi trả châu báu, vương phục (thể hiện cởi bỏ mọi ràng buộc với gia đình, với địa vị).
Nhận những gì ?
- Đức
Phật đã nhận bát sữa để đánh dấu sự từ bỏ khổ hạnh vô nghĩa, nhận tám
bó cỏ Kusa làm phương tiện tọa thiền, nhận y bát để làm phương tiện
hoằng hóa, nhận tinh xá Trúc Lâm, Kỳ Viên … để làm nơi an trú cho
Tăng đoàn. Tóm lại, Đức Phật nhận tất cả những gì cần thiết hỗ trợ cho
việc tu hành của cá nhân người tu sĩ hay của tập thể Tăng đoàn, cũng có
khi Đức Phật nhận vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh mà làm phước điền
cho thí chủ.
Nhận
hay khước từ, đó là Đức Phật đã tùy duyên mà ứng xử vì LỢI MÌNH, LỢI
NGƯỜI, LỢI CHO ĐẠO PHÁP, trước sau chẳng mâu thuẫn nhau.
2. Đức Phật nhớ tất cả mà quên tất cả
Nhớ tất cả :
- Khi
sao Mai vừa mọc, Đức Phật đắc đạo, liền dành thời gian bảy ngày chiêm
ngưỡng cây Bồ-đề, nơi đã che mưa đỡ nắng, trợ duyên cho Ngài an trụ
trong thiền định suốt 49 ngày đêm và đắc quả vị Phật.
- Sau
đó, Ngài tuần tự nhớ nghĩ đến hai vị Thầy dạy mình đầu tiên là
"A-la-sa" và "Úc-đa-ca", muốn tìm phương tiện độ cho được giải thoát,
nhưng cả hai vị đều đã qua đời, rồi đến năm anh em ông Kiều-trần-như,
nhớ lời ước hẹn với vua Tần-bà-sa-la, nhớ cô thôn nữ Sujata dâng bát
sữa, nhớ cậu trai Svastika dâng cỏ cát tường để trải tòa thiền định, nhớ
vua cha Tịnh Phạn và dòng họ Thích-ca … Tóm lại, Đức Phật nhớ tất cả chúng sanh.
Quên tất cả :
- Là quên kẻ thù, kẻ làm thân Phật chảy máu, quên mọi nguyên nhân làm mình khổ (quên những sự thù hằn, thóa mạ, vu khống của ngoại đạo, quên tội tày đình của Đề-bà-đạt-đa). Tóm lại, Đức Phật không nhớ lỗi chúng sanh.
Ở
đây, nhớ và quên không phải là mâu thuẫn, mà là trạch pháp : Điều thiện
dù nhỏ chẳng bỏ qua, điều ác dù nhỏ phải dứt trừ. Vả lại, chư Phật thị
hiện ở đời đều vì đại bi, đại nguyện đối với chúng sanh nên bất cứ lúc
nào, bất cứ ở đâu, trong từng niệm, chư Phật đều vì chúng sanh, đều
thương tưởng chúng sanh.
3. Đức Phật nói rất nhiều mà phủ nhận tất cả
Với
49 năm "giáo hóa độ xuân thu", cụ thể nhất là với 82.000 bài kinh do
chính Tôn giả A-nan ghi nhớ được, chứng tỏ Đức Phật thuyết giáo rất
nhiều, thế nhưng, cuối cùng Ngài tuyên bố : "Ta chưa từng nói lời nào !"… ? …
Tuy Ngài nói vậy nhưng nào phải vọng ngữ ! Chẳng qua vì chúng sanh căn
cơ hạ liệt nên Đức Phật đã chọn lọc trong rừng kiến thức của bậc Nhất
thiết trí (ví như lá trong rừng) rút ra những nhận thức cốt tủy của Phật pháp (ví như lá trong nắm tay Phật)
để phương tiện khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật. Đó là
cách làm của bậc Y vương, biết căn bệnh trầm kha của chúng sanh là chấp
mắc nên cho món thuốc xả chấp đó thôi. Giáo lý Như Lai dạy chỉ nên coi
như thuyền bè đưa chúng sanh vượt qua bờ sanh tử, đừng dại dột nắm giữ
mãi chiếc bè, đừng để bị kẹt vào giáo pháp mà hành xử một cách u mê, máy
móc, thiếu trí xét đoán, không đúng lúc, đúng thời. Quá chấp vào lời
kinh, để trở thành "tam thế Phật oan".
4. Đức Phật đi khắp nơi mà dừng lại
Chỉ
với đôi chân trần mà vì lợi lạc cho chư Thiên và loài người, Đức Phật
đã hành trình suốt từ Bắc Ấn đến Nam Ấn, có lúc độc hành, có lúc cùng
đại chúng và cuối cùng, Ngài về Vesàli để nhập Niết-bàn :
"Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu".
Đức
Phật luôn khuyến tấn các đệ tử phải đi và chính Ngài đã đi cùng khắp.
Đi để giáo hóa, để đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp
của TỪ BI, BÌNH ĐẲNG, GIẢI THOÁT, nhưng Đức Phật lại bảo Angulimàla rằng
: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi !" khiến kẻ đang say máu giết người này
bàng hoàng thức tỉnh, xuất gia theo Phật, và cuối cùng đạt quả vị giải
thoát. Cho nên, đối với các bậc Thánh nhân, không có nhị biên giữa đi và
dừng. Dừng là dừng mọi bất thiện pháp và đi thì mỗi bước chân của chư
vị đều nhiếp đủ cả Tam tụ tịnh giới : Luật nghi giới, Thiện pháp giới,
Nhiêu ích hữu tình giới.
Điểm nổi bật trong giáo lý của Đức Phật Thích-ca, đó là tính nhân bản, tính bình đẳng, tính vô ngã và tính từ bi.
Tính nhân bản
"Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật".
Thật
không một tôn giáo nào, không một hệ tư tưởng nào đề cao con người và
đặt niềm tin vào con người như đạo Phật. Theo Phật giáo, con người là
chủ nhân mọi hành vi của chính bản thân mình, là vị Thượng đế duy nhất
toàn quyền thưởng phạt mình, cho nên Đức Phật luôn luôn khuyên nhủ mọi
người hãy tránh ác, làm thiện, gột rửa nội tâm để trở thành một con
người hoàn thiện về đức hạnh và trí tuệ.
Tính bình đẳng
Kinh
Đại Báo Ân đã tán thán Đức Phật : "Như cơn gió lốc thổi dồn tất cả các
thứ lá lại một chỗ, Đức Cồ-đàm giáo hóa tất cả, trí thức ngu si, vương
giả bần cùng, nghèo hèn giàu sang, già cả niên thiếu, đàn bà đàn ông, kẻ
ác người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cồ-đàm đều mang vào giáo pháp
và xem như nhau. Đạo của Đức Cồ-đàm là đạo bình đẳng, không phân biệt
vậy !"
Thành
tích tuyệt vời đó sở dĩ Đức Phật làm được là do từ nhận định hết sức
bình đẳng : "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ; không có hận thù
trong giọt nước mắt cùng mặn". Đức Phật đã ra sức giáo hóa, chiêu cảm,
cứu vớt, thương yêu, độ tận mọi loài chúng sanh, cuối cùng đưa chúng
sanh vào con đường giải thoát.
Tính vô ngã
Tất
cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới này đều hoàn toàn không có một
cái chủ tể nhất định, luôn chuyển động, đổi thay qua bốn giai đoạn
"sanh, trụ, dị, diệt".
Ngay khi còn sống trong cung vui, Đức Phật đã từng than thở cùng công chúa Da-du-đà-la : "Ta
nghe trong ta, trong em và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới
sức tàn phá của búa thời gian, tất cả những gì quý giá của đời người … Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương".
Chủ tể đã không thì phải phá bỏ ngã chấp, có vậy mới mong giải thoát tự
thân và thực hiện vị tha. Cái bi kịch của kiếp người không do một định
mệnh khắt khe nào, không do một đấng sáng thế nào sắp đặt, mà chính do
con người tự đày đọa mình trong vòng vô minh của NGÃ CHẤP vậy.
Tính từ bi
"Từ
năng dữ lạc, bi năng bạt khổ". Cứu khổ ban vui, đó chính là trọng trách
thiêng liêng của Phật giáo và cũng chính nhờ sứ mệnh cao cả này mà Phật
giáo tồn tại trên một lịch sử lâu dài của nhân loại : TỪ BI là thứ tình
thương vượt qua mọi ranh giới, mọi quan hệ và bao trùm lên tất cả muôn
loài, không phân biệt đây kia, thân sơ, bạn thù, giàu nghèo, sang hèn,
người vật. Trên tinh thần đó, chắc chắn Phật giáo sẽ tồn tại mãi mãi. Đức Phật dạy : "Hận thù không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù, đó là định luật của ngàn xưa".
Tồn
tại 2545 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó
nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà
chỉ tùy duyên truyền đạt, mang tính phương tiện nhất thời. Lối hành xử
của Đức Phật vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị biên nên chẳng những đã phá
bỏ mọi chấp thủ mà còn đem lại sự giải tỏa mọi ức chế trên tâm lý con
người, vì thế đạo Phật sẽ mãi mãi tiếp tục được sứ mệnh hóa giải khổ đau
cho nhân loại.
Tuy
thành tựu vẻ vang và tuyệt vời trong công trình hoằng hóa "có một không
hai", nhưng Đức Phật chẳng bao giờ tự nhận hay chấp nhận người khác tôn
thờ mình như một người sáng tạo ra học thuyết, hay một người có quyền
năng của Thượng đế hoặc Thần linh. Đến với đạo Phật để mà "thấy" chớ
không phải đến để mà "tin", đó là điều mà Đức Phật muốn phát huy cái khả
năng Phật tánh ở mỗi con người để tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính
mình.
Do
những lẽ trên, con người thời đại ca ngợi đạo Phật vì đã có dịp kiểm
nghiệm vai trò tôn giáo của đạo Phật qua thực tế cuộc sống, huống chi
những người sinh ra đời gặp Phật, được chứng kiến Thánh hạnh của Đức
Phật, bản thân cũng tự giác ngộ được những tri kiến "như thật", dĩ nhiên
đã không ngớt lời tán thán Đức Thế Tôn : "Thật vi diệu, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho
ai có mắt có thể thấy".
DY Theo CHP
« Quay lại