Trước khi thành Phật, Ngài hành hạnh Bồ Tát trong một thời gian dài
đến bốn A Tăng Kỳ và một trăm ngàn Đại Kiếp. Từ lúc đảnh lễ dưới chân
Đức Phật Nhiên Đăng nguyện trở thành một Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác cho
đến khi Ngài hoàn toàn giác ngộ, Bồ Tát đã tu tập thuần thục và tròn đủ
mười hạnh Ba La Mật (bố thí, trì giới, xuất gia, trí huệ, tinh tấn, nhẫn
nại, chơn thật, quyết định, tâm từ và tâm xả). Đến kiếp cuối cùng, cách
đây trên 2500 năm, Ngài là con của vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Māyā. Vua
cha đặt tên cho Ngài là Sĩ Đạt Ta. Năm mười sáu tuổi, Ngài thành hôn
với Công Chúa Da Du Đà La và tiếp tục hưởng thú giàu sang phú quí. Năm
hai mươi chín tuổi, ý thức được nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh, Ngài
quyết định từ giả cuộc đời thế tục, tìm đường thoát khỏi cảnh già đau
chết.
Đầu tiên Bồ Tát đến học đạo với thầy Alārā, người đã đạt được tầng thiền vắng lặng thứ bảy. Sau đó lại tu tập dưới sự chỉ dẫn của Udaka, người
đã đạt đến tầng thiền vắng lặng thứ tám, tầng thiền vắng lặng cao nhất.
Sau một thời gian thực hành không lâu, Bồ Tát đã tự mình đạt được thầng
thiền thứ bảy và tám như thầy. Mặc dầu đã theo kịp thầy nhưng Ngài thấy
rằng: "Hai tầng thiền này không có đủ khả năng giúp ta thoát khỏi
cảnh già, đau, chết mà chỉ đưa ta đến cõi vô sắc, có thể sống một đời
sống lâu dài... Nhưng sau khi hưởng tuổi thọ lâu dài bằng sáu chục ngàn
hay tám mươi bốn ngàn lần của trái đất, ta cũng phải thác sanh trở lại
cõi người và tiếp tục chịu già, đau, chết. Lại cũng có thể tái sanh vào
bốn đường ác: (Súc Sanh, Ngạ Quỷ, A Tu La, Địa Ngục). Vậy thì dù đạt
được tầng thiền cao tột bực vẫn không thoát khỏi luân hồi đau khổ trong
sáu đường (Trời, Người, A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Địa Ngục)." [*]
Ý thức như thế nên Bồ Tát từ bỏ những tầng thiền thế tục, tiếp tục tìm
kiếm con đường giải thoát già, đau, chết. Vào thời bấy giờ người ta hay
chọn lối tu khổ hạnh, thế là Bồ Tát bắt đầu tu khổ hạnh. Mỗi ngày Ngài
chỉ dùng một ít thức ăn, có lúc chỉ là một nắm đậu nhỏ. Trong sáu năm
liền kham khổ, Ngài cố gắng hành cho đến mức tận cùng của phương pháp
khổ hạnh. Nhưng phương pháp khổ hạnh không đem lại kết quả: Thân thể
ngày càng kiệt quệ mà trí tuệ không phát triển thêm chút nào. Cuối cùng,
Ngài bỏ phương pháp tu khổ hạnh và thực hành phép thiền định về hơi
thở, quán sát hơi thở ra vào, và đạt đến tầng thiền hữu sắc thứ tư. Sau
đó, Ngài tiến đến những mức độ phát triển tinh thần cao hơn.
Cuối cùng Ngài khám phá ra rằng: có già, chết vì có tái sinh và tái sinh
là kết quả của tham ái, và nghiệp. Tham ái có nguyên nhân là cảm thọ.
Nếu thấy bằng một nhãn quan đúng đắn thì sẽ nhận rõ thực trạng của cảm
thọ, đó chỉ một chuỗi tiến trình sinh diệt. Khi nhận thức được rằng cảm
thọ sinh ra rồi diệt ngay thì lòng ham muốn không khởi dậy nữa. Khi lòng
ham muốn chấm dứt thì chấp thủ và nghiệp tạo ra để thỏa mãn dục lạc
cũng chấm dứt. Khi nghiệp lực chấm dứt thì tái sinh không còn, đau khổ
của già, chết cũng chấm dứt.
Nhận thức được điều này, Bồ Tát gia công quán sát sự sanh diệt của ngũ uẩn thủ [**] hay Vật Chất và Tâm. Quán sát như vậy tham ái không có cơ hội dấy lên.
Những tập hợp luyến ái (uẩn thủ) là những hiện tượng tâm vật lý phát
sinh ra mỗi khi ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm và suy nghĩ. Chẳng
hạn: trong mỗi sự thấy đều có ba yếu tố:
- Cơ quan thâu nhận: mắt (nhãn căn)
- Cơ quan kích thích: vật được thấy (nhãn trần)
- Cơ quan nhận biết: sự biết của mắt (nhãn thức)
Khi Sự Biết của mắt phát sinh thì Cảm Thọ phát sinh; Tri Giác về vật
được thấy phát sinh; Phản ứng Của Tâm trước đối tượng được thấy phát
sinh.
Mắt và vật thấy là những tập hợp vật chất (sắc uẩn). Các tập hợp Vật
Chất này được chúng ta chấp lấy và xem chúng là trường cửu, đáng yêu và
là của ta thật sự.
Cái biết của măt (Thức) cùng các hiện tượng của tâm như: Cảm giác (thọ),
Tri giác (Tưởng) Phản ứng của tâm (Hành) là những tập hợp của Tâm
(Nāma). Các tập hợp của tâm này cũng được chúng ta xem là trường cửu,
đáng yêu và là sỡ hữu của ta.
Tóm lại, mắt và vật thấy là những tập hợp của Vật Chất (Sắc) và sự
biết của mắt, là Tâm (Nāma). Chỉ có hai đặc tính vật chất và tâm linh
này mà thôi; chẳng có gì khác nữa. Các hiện tượng tâm-vật lý này sẽ phát
sinh mỗi khi ta nhìn. Và mỗi tác động nhìn, sinh ra rồi diệt ngay tức
khắc. Tuy nhiên, nếu chúng ta không ghi nhận kịp thời mỗi khi thấy thì
vật thấy sẽ được chúng ta chấp giữ và xem là cái gì trường cửu bất biến.
Sự chấp giữ và nghiệp tạo ra để thỏa mản dục lạc là nguyên nhân của tái
sinh. Vì có tái sinh nên có đau khổ của già, chết.
Nếu mỗi một sự thấy đều được ghi nhận kỹ càng thì ta sẽ nhận ra được sự
sinh diệt của năm nhóm tập hợp (Ngũ Uẩn hay Danh Sắc); nhờ đó, sự luyến
ái sẽ không phát sinh. Nghiệp tạo ra bởi sự chấp thủ, ao ước một kiếp
sống mới cũng ngừng nghỉ. Kết quả là khổ già, đau, chết chấm dứt.
Tương tự như vậy, nếu mọi hiện tượng phát sinh lúc ta nghe, ngửi, nếm,
xúc chạm và suy nghĩ không được ghi nhận và ý thức sáng suốt kịp thời
thì Chấp Thủ và Hữu (muốn có một kiếp sống mới) sẽ phát sinh; và khổ
già, đau, chết sẽ nối liền theo đó. Ngược lại, nếu các hiện tượng tâm
vật lý mỗi khi xuất hiện đều được ghi nhận kịp thời và với ý thức sáng
suốt thì Chấp Thủ và Hữu sẽ chấm dứt và khổ già đau chết cũng không phát
sinh.
Nhờ quán chiếu sự sinh diệt của ngũ uẩn thủ, nên chẳng bao lâu Bồ Tát thoát ra khỏi các Lậu Hoặc (Àsava-kilesa): Dục lậu, Hữu lậu và Vô Minh lậu và thành Phật.
Trên đây là sơ lược những điều thực hành của Bồ Tát để loại bỏ: sanh,
già, bệnh, chết và thành đạt Đạo Quả, chứng nghiệm Giáo Pháp cao thượng
bao gồm Giới, Định, Huệ và giải thoát. Và với tình thương rộng lớn, Đức
Phật đã đem Giáo Pháp Cao Thượng, con đường thoát khổ ra giảng dạy cho
những ai muốn tìm đường giải thoát như Ngài .
Sau khi Giác Ngộ, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển ở rừng Migadaya để thuyết pháp độ năm thầy Kiều Trần Như, đó là: Kondañña, Vappa, Bhaddiya, Mahā nāma và Assaji.
Đây là năm người học trò đã theo Bồ tát trong thời gian Ngài hành các
pháp khổ hạnh. Bồ Tát đã tích cực hành pháp khổ hạnh đến nỗi thân thể
chỉ còn da bọc xương. Về sau, thấy phương pháp khổ hạnh chỉ đem lại đau
khổ mà trí tuệ chẳng hề tăng trưởng, nên Ngài quyết định dùng lại thức
ăn để có đủ sức hành thiền quán niệm hơi thở. Thấy Ngài không còn tu khổ
hạnh, năm thầy Kiều Trần Như lấy làm thất vọng và bỏ Ngài ra đi. Họ đến
trú tại Lộc Uyển (vườn nai) gần Bénares, cách Bodhigaya một trăm bốn mươi dặm. Từ Bodhigaya Đức Phật đi bộ đến Lộc Uyển. Sau khi đến vườn nai, ngồi vào chỗ dọn sẵn, Đức Phật nói với năm thầy:
- Ta đã tìm thấy chánh pháp bất diệt, nếu các thầy thực hành theo Giáo
Pháp các thầy sẽ đạt được pháp cao thượng mà các thầy muốn tìm kiếm. Hãy
nghe!
Năm thầy Kiều Trần Như trả lời:
- Này hiền giả Gotama, trong thời gian hiền giả hành khổ hạnh
tích cực như thế mà hiền giả còn chưa đạt được sự sáng suốt, huống hồ
bây giờ hiền giả đã bỏ lối tu cao thượng này thì làm sao đạt được kết
quả.
Đức Phật, với tình thương, lập đi lập lại ba lần, khuyên các thầy hãy
lắng nghe giáo pháp, nhưng cả ba lần các thầy vẫn không tin tưởng. Cuối
cùng Đức Phật nói với họ:
- Các thầy thân mến, không phải đây là lần đầu tiên ta gặp các thầy. Các
thầy đã sống với ta trong sáu năm lúc ta tu khổ hạnh. Từ trước đến nay
có bao giờ các thầy từng nghe ta nói rằng ta đã đạt pháp cao thượng
chưa?
Nghe Đức Phật nói thế, các thầy đặt lòng tin tưởng và lắng nghe lời dạy
của Đức Phật. Bài pháp đầu tiên này có tên là Kinh Chuyển Pháp Luân.
Kinh khởi đầu như sau: " Sau khi tự mình chứng ngộ giáo pháp cao
thượng, Đức Thế Tôn dạy cho năm thầy Kiều Trần Như giáo pháp mà Ngài đã
chứng ngộ để họ có thể thấy được chân pháp như Ngài".
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu một vài đoạn chính trong kinh này.
Từ năm mười sáu cho đến năm hai mươi chín tuổi, Bồ Tát Sĩ Đạt Ta hưởng
thụ lạc thú ngũ trần bên cạnh người vợ xinh đẹp và đoàn cung nữ mỹ miều.
Đối với người bình thường thì lạc thú thế gian là nguồn hạnh phúc lớn
lao mà họ cố công tìm kiếm và hưởng thụ. Vì si mê đưa đến hiểu biết sai
lầm, mục tiêu để tìm kiếm hạnh phúc của họ là ngũ dục thế gian nên họ
không thoát khỏi khổ đau do tham lam sân hận đem lại. Họ bị tràn ngập
bởi phiền não, ô nhiễm sinh ra từ lòng ham muốn được hiện hữu, luôn luôn
dính liền với già, đau, chết. Nhưng dưới cặp mắt của bậc trí giả, mọi
lạc thú thế gian đều tạm bợ, không thể nào thỏa mãn ước vọng con người;
chỉ có thoát ra khỏi vòng sanh tử mới là hạnh phúc trường cửu. Nhưng
muốn thoát ra khỏi vòng sanh tử, đạt chân hạnh phúc phải thoát khỏi thế
gian này, và hạnh phúc cuối cùng này chỉ có thể thành tựu trọn vẹn nhờ
vượt ra khỏi mọi bất tịnh của tham lam, sân hận. Đó là lý do tại sao Đức
Phật dạy chư tăng phải cố gắng giải thoát ra khỏi mọi phiền não, bằng
cách tránh xa mọi lạc thú ngũ trần qua phương pháp hành thiền tích cực.
Đó cũng là điều Bồ Tát đã ý thức khi Ngài từ giã vợ con, rời bỏ mọi thú
vui cuộc đời, ra đi tìm chân lý.
Từ bỏ tu khổ hạnh, không phải Bồ Tát muốn trở về con đường hưởng thụ dục lạc mà để có đủ sức khỏe thực hành phép luyện tâm. Bồ Tát thấy rõ khổ hạnh chỉ làm cho cơ thể hao mòn mà chẳng gặt hái được Giáo Pháp cao thượng. Trung đạo chỉ được tìm thấy sau khi Ngài đã từ bỏ hai thái cực "lợi dưỡng" và "khổ hạnh" mà thôi. Con đường trung dung này gồm có:
Chánh Kiến: Có cái nhìn đúng.
Chánh Tư Duy: Suy tư đúng, hướng tâm đúng.
Chánh ngữ: Nói lời đúng.
Chánh Nghiệp: Hành động đúng.
Chánh Mạng: Sự nuôi mạng chân chánh.
Chánh Tinh Tấn: Nỗ lực đúng.
Chánh Niệm: Ghi nhớ, biết mình đúng.
Chánh Định: Thiền định chân chánh.
Trong tám chi của Bát Chánh Đạo thì Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng
thuộc phần Giới. Đối với người cư sĩ, nếu Ngũ Giới được thận trọng giữ
gìn thì phần giới đã đạt mức khả quan. Nhưng giới được gọi là trọn vẹn
khi đắc quả Tu Đà Huờn. Bởi thế bậc Tu Đà Huờn được gọi là bậc đã tròn
đủ giới hạnh. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc phần Định.
Định chỉ đạt được mức khả quan khi hành giả đạt các tầng định. Nhưng
Định chỉ được tròn đủ khi đắc quả A-Na-Hàm. Bởi thế A-Na-Hàm được gọi là
bậc đã tròn đủ định lực. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc phần Huệ. Trong
khi nghi nhận các hiện tượng tâm vật lý tiềm tàng trong mỗi động tác
nghe, thấy v.v... và trong khi nhận biết được sự sinh diệt của chúng thì
Huệ sẽ được khai triển cùng lúc với Giới và Định. Huệ được tròn đủ khi
đắc quả A-La-Hán. Bởi thế A-La-Hán được gọi là bậc đã tròn đủ Huệ lực.
Khi đạt quả A La Hán Bồ Tát thoát khỏi mọi Hoặc Lậu, Phiền Não.
Bồ Tát đạt đạo quả A-La-Hán và thành Phật nhờ quan sát sự sanh diệt của
Ngũ Uẩn Thủ và khai triển Bát Chánh Đạo. Đức Phật tìm thấy Trung Đạo khi
Ngài từ bỏ hai thái cực Lợi Dưỡng và Khổ Hạnh. Ngài dạy chúng ta thực
hành Bát Chánh Đạo để đạt huệ nhãn và tự mình thành tựu Thánh Trí.
Huệ nhãn ở đây là sự hiểu biết, được gọi là con mắt trí tuệ, vì Huệ nhãn
thấy rõ như thấy bằng mắt. Huệ nhãn thấy rõ rằng mọi tác động, mọi kinh
nghiệm: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và hiểu biết gì cũng chỉ là
những hiện tượng tâm vật lý cùng nhân quả mà thôi. Huệ nhãn cũng đồng
thời tự kinh nghiệm, tự nhận biết rằng chẳng có một cái ta trường tồn
vĩnh cữu, tất cả chỉ là sự biến đổi liên tục của hiện tượng tâm vật lý
vô bản thể. Tất cả những ý thức trên đều do tự mình chứng nghiệm, chứ
không phải chỉ là sự tin tưởng mù quáng thâu nhận từ một vị thầy nào,
cũng không phải là sự nhắm mắt tin càng những lời dạy của Đức Phật. Bởi
thế lời dạy của Đức Phật được tán dương là Sanditthiko có nghĩa là "Pháp
tự mình ngộ lấy qua thực hành".
Bát Chánh Đạo được gọi là Trung Đạo, có khả năng giúp người hành trì có
được tuệ nhãn để thấy rõ chân tướng của sự vật, tiêu diệt phiền não,
chứng quả Niết Bàn. Bất cứ ai quyết tâm hành trì Bát Chánh Đạo đều có
thể đạt tuệ giác, loại trừ phiền não, chứng quả Niết Bàn.
Sau khi lắng nghe lời giảng dạy của Đức Phật qua bài pháp đầu tiên, Kiều
Trần Như là người đầu tiên đắc quả Tu Đà Huờn. Trong khi đó có một trăm
tám chục triệu vị chư Phạm Thiên thường được gọi là các vị Thượng Đế
cai quản các cõi trời Phạm Thiên đắc đạo quả. Vô số các vị Chúa Trời và
các vị trời khác chứng nghiệm giáo pháp vi diệu.
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu cách thực hành Bát Chánh Đạo.
Khi ngồi thiền, thiền sinh ngồi theo nhiều cách khác nhau. Có thể ngồi
theo lối kiết già: hai chân tréo nhau, hai bàn chân đặt lên hai vế;có
thể theo lối bán già: chân này đặt lên chân kia hoặc ngồi theo lối tự
nhiên thoải mái, hai chân rời nhau không chân nào chồng lên chân nào,
chân này để trước chân kia . Để có thể ngồi lâu, ngày nay một số nơi
trên thế giới, thiền sinh có thể ngồi trên ghế. Nhưng dầu ngồi xếp bằng
hay ngồi trên ghế lưng cũng phải giử thẳng. Mục đích giử thẳng lưng là
để sự tinh tấn không bị suy yếu. Thiền sinh cũng không được dựa vào vách
hay thành ghế. Tâm phải chú vào đề mục thiền. Dầu thiền Kasina (dùng
đối tượng bên ngoài như đất, nước, màu sắc v.v...), quán sát thân bất
tịnh hay niệm hơi thở, tâm cũng phải dán chặt vào đối tượng thiền.
Thiền Minh Sát (vipassana) là quán sát các hiện tượng xảy ra
ở sáu cửa giác quan. Thoạt đầu, thiền sinh khó có thể quán sát tất cả
các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa, do đó chỉ cần chú tâm đến một ít hiện
tượng mà thôi. Đó là lý do tại sao thiền sinh được đề nghị chú tâm vào
chuyển động phồng xẹp của bụng, theo dõi sự chuyển động của bụng. Thiền
sinh dùng tâm để quán sát các chuyển động ở bụng chứ không phải dùng
mắt, do đó khi ngồi thiền, thiền sinh nên nhắm mắt lại.
Khi bụng phồng lên, ghi nhận "phồng"; và khi bụng xẹp xuống, ghi nhận "xẹp".
Không cần phải niệm ra miệng. Chỉ ghi nhận thầm trong tâm mà thôi.
Nhớ là chú tâm vào chuyển động phồng xẹp chứ không chú tâm vào chữ phồng
xẹp.
Phải theo dõi chuyển động phồng xẹp từ lúc phồng bắt đầu cho đến lúc
phồng chấm dứt, từ lúc xẹp bắt đầu cho đến lúc xẹp chấm dứt. Đây là sự
quán sát yếu tố chuyển động hay yếu tố gió của bụng biểu hiện qua sự
căng cứng, sự bành trướng, sự rung chuyển của bụng.
BÌNH LUẬN