| 29/08/2014, 05:09 pm |
Kinh lời dạy cuối cùng của Đức Phật
(Tintuc.OHO.vn) - Trước khi nhập Niết bàn, Phật dạy:
"Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu,
đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng
suy, hay coi lịch đoán số".
Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa
độ tất cả. Vào đêm cuối trước ngày Niết-bàn vô dư, giữa rừng Sa-la,
dưới cây song thọ, không gian thật vắng lặng, yên tĩnh, Đức Phật đã nhắn
nhủ những điều cốt lõi của chánh pháp như sau.
1- Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua
đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được
giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc
Thầy tối thượng. Dẫu có sống thêm ở đời bao nhiêu năm nữa, Như Lai cũng
không ngoài mục đích răn dạy các vị về giới luật ấy thôi.
Người giữ giới thì không được kinh
doanh, thương mại, xây dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông
nghiệp, thuê người giúp việc, theo kiểu thế tục. Không được chặt đốn cây
cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao
đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng suy, hay coi lịch đoán số.
Các vị nên sống tiết chế thân mạng, ăn
uống điều độ, duy trì nếp sống thanh cao, giải thoát. Không tham dự
chính trị, lãnh sứ mạng liên lạc, thông tin. Không được luyện bùa chú,
chế linh dược, giao hảo người quyền quý, kết thân kẻ ngạo mạn. Cần phải
giữ tâm chân thật, sống chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây,
mong cầu đạo quả giải thoát. Không được che dấu lỗi lầm, bày điều mê
hoặc để thu hút quần chúng. Phải sống ít muốn, biết đủ đối với bốn phẩm
vật cúng dường. Sống vừa đủ để hành đạo, không cất chứa tài sản và tiền
bạc.
Như Lai
vừa nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới luật đó là căn bản, là gốc rễ của
giải thoát. Nhờ giữ giới trang nghiêm, thiền định và trí tuệ phát sanh,
có thể tiêu diệt sự đau khổ. Thế nên các vị hãy giữ gìn giới luật một
cách trọn vẹn. Người giữ giới thanh tịnh sẽ nuôi lớn pháp lành. Người
thiếu mất giới thì không thể phát sinh công đức.
2. Này các đệ tử, các vị phải chế ngự năm giác quan không để
chúng dong ruổi theo trần cảnh, dục lạc. Người tu phải như chú mục đồng
cầm roi chăn, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người. Một khi các vị
buông lung năm giác quan, không những các vị không chế ngự được năm thứ
dục lạc, mà các vị cũng không thể dừng được vòng cương toả của phóng
túng, như con ngựa chứng nếu không dây cương, nó sẽ lao xuống hầm hố.
Nạn khổ của giặc cướp chỉ có một đời, trong khi nạn giặc giác quan làm
chúng sanh đau khổ nhiều kiếp. Tai họa của nó vô cùng nguy hiểm. Các vị
phải cẩn thận.
Thế nên, người có trí cần phải chế ngự
các giác quan chứ không phục tùng nó; giữ gìn chúng như là canh chừng
giặc cướp, không để chúng hoành hành, thao túng.
Này các đệ tử, trong các giác quan của
con người, ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý
mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí
nguy hại hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật
trên tay và quên đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say
mà không có móc sắt; như khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền
nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế
ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp thiện. Khi tâm được chế ngự một
chỗ thì không việc gì không thành.
3. Này các đệ tử, khi thọ dụng phẩm
vật cúng dường, các vị nên quan niệm như uống thuốc. Ngon không ham, dở
không chê. Ăn uống chỉ để cho khỏi đói khát. Như ong hút mật trong hoa,
chỉ lấy mùi vị, không làm tổn thương hương sắc. Người xuất gia cũng vậy:
thọ dụng sự cúng dường để đủ sức khoẻ tu tập, không được ham cầu quá
nhiều, làm tổn thất tín tâm của tín thí. Hãy như người trí biết lượng
sức kéo và chịu đựng của trâu, không nên dùng trâu quá sức, đến nỗi kiệt
lực.
4. Này các đệ tử, ban ngày thì nỗ lực
tu tập pháp lành, không để thời gian trôi qua uổng phí. Đầu hôm, cuối
đêm cũng không luống bỏ. Giữa đêm tụng niệm, tu trì. Đừng vì chuyện ngủ
nghỉ mà để cuộc đời trôi qua vô ích. Hãy tâm niệm rằng ngọn lửa vô
thường đang đốt cháy thế gian, để tự tinh tấn độ mình, khắc phục sự lười
biếng, ngủ nghỉ. Giặc phiền não luôn rình rập giết các vị, còn nguy
hiểm hơn kẻ thù, làm sao các vị có thể mặc tình ngủ nghỉ mà không cảnh
giác ! Phiền não ngủ trong tâm người cũng như rắn độc nằm trong nhà,
phải dùng móc sắt giới hạnh mà lôi kéo nó ra gấp. Rắn độc ra rồi ta mới
an tâm ngủ nghỉ. Rắn độc chưa ra mà mải mê ngủ nghỉ thì thật là người
không biết hổ thẹn.
Này các đệ tử, sự hổ thẹn là trang sức
đẹp nhất trong mọi trang sức. Sự hổ thẹn có khả năng chế ngự mọi thứ
bất thiện và phi pháp của con người. Thế nên hãy sống với tâm niệm hổ
thẹn, đừng bao giờ lãng quên đức tính ấy. Mất tâm hổ thẹn là mất tất cả
công đức. Có hổ thẹn là có tất cả thiện pháp. Không hổ thẹn thì có khác
chi loài cầm thú.
5. Này các đệ tử,
nếu có ai xúc phạm, thương tổn thân thể các vị, các vị nên kiềm chế tâm
mình, đừng để lửa sân hận thiêu đốt. Lại phải giữ lời ăn, tiếng nói,
đừng buông lời ác độc để trả đũa ai. Tâm sân hận trỗi dạy sẽ làm băng
hoại đạo nghiệp, cháy hết công đức tu tập. Đức tánh của kham nhẫn thì
giữ giới và khổ hạnh cũng không thể sánh bằng. Thực hành đức nhẫn mới
xứng danh là bậc Thượng Nhân có sức mạnh. Người nào chưa có thể chịu
đựng sự nhục mạ một cách hoan hỷ, như uống cam lộ, thì chưa thể xứng
danh là người vào đạo có trí. Sự sân hận sẽ thiêu hủy tất cả pháp lành,
nó nguy hiểm hơn lửa dữ. Các vị phải canh phòng cẩn mật, đừng cho sân
hận xâm nhập. Trong các loại giặc cướp công đức thì sân hận là nguy hiểm
bậc nhất. Người thế gian sống thọ hưởng dục lạc, thiếu phương pháp chế
ngự, nếu có sân hận còn có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo
loại bỏ mọi thứ vui của đời mà không loại bỏ được sân hận thì thật đáng
trách, cũng giống như bầu trời quang đãng mà có sấm sét nổi lên là điều
không thích hợp.
6. Này các đệ tử, các vị hãy tự xoa
đầu mình và ghi nhớ rằng: các vị đã bỏ tất cả các mỹ phẩm và trang sức
của thế gian, khoác trên mình chiếc áo cà-sa hoại sắc, sống bằng cách
khất thực. Khi nào tâm lý kiêu mạn, cao ngạo nổi lên thì lập tức chế ngự
nó. Kiêu ngạo là tánh xấu mà thế nhân còn không nên có, huống chi là
người xuất gia vì đạo giải thoát, sống bằng khất thực hay sao!
7. Này các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái
ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Thế nên, các vị hãy huấn luyện tâm
cho thật chất trực. Nên biết rằng: Dua nịnh là điều dối trá mà người
xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh
trung trực. Đó là con đường vào đạo.
8. Này các đệ tử, các vị nên biết
rằng người nào tham muốn nhiều thì nhu cầu lợi dưỡng cũng nhiều, do vậy
mà đau khổ càng tăng. Người ít muốn thì không ham cầu, không đắm nhiễm
nên không có tệ hại ấy. Chỉ với lợi ích ấy thôi cũng đủ để các vị phải
trau dồi, thực tập, huống là khi hạnh này còn có công năng phát triển
các công đức ! Người ít muốn thì không lấy lòng người bằng cách dua
nịnh, lòn cúi và cũng không bị các giác quan sai sử, thao túng. Hành giả
ít muốn, tâm ý được thanh thản, không còn những ưu tư, phiền muộn, gặp
việc thì đủ nghị lực để ứng phó, không việc gì không làm được. Nói
chung, sống hạnh ít muốn tất gần Niết-bàn.
9. Này các đệ tử, nếu các vị muốn giải
thoát mọi đau khổ thì nên thường xuyên tu tập quán biết đủ. Pháp biết
đủ là cơ sở của sự an lạc, hạnh phúc và sung mãn. Người biết đủ dẫu nằm
trên đất vẫn thấy an lạc. Người không biết đủ dẫu sống ở thiên đường vẫn
chưa thấy toại nguyện. Không biết đủ tuy giàu mà rất nghèo. Biết đủ thì
tuy nghèo nhưng rất giàu có. Người không biết đủ là kẻ nô lệ của năm
thứ dục lạc thấp kém và còn là tấm bia đời đáng thương xót đối với hành
giả biết đủ.
10. Này các đệ tử, muốn đạt đạo tịch
tịnh, vô vi, an lạc, các vị phải xa lìa những chốn huyên náo, sống một
mình ở những nơi an nhàn, thanh vắng. Người ở chỗ yên tĩnh thì trời
Đế-thích và chư Thiên đều kính trọng. Vì thế, các vị nên xa lìa hội
chúng, sống đơn độc thư thái và cắt đứt gốc rễ đau khổ bằng tư duy trí
tuệ. Người thích hội chúng thì bị hội chúng nhiễu loạn, như cây cổ thụ
mà có nhiều chim tụ tập thì có thể bị hư cành. Thế gian trói buộc con
người trong đau khổ cũng giống như con voi già bị sa lầy, khó mong thoát
khỏi. Đó là hạnh siêu thoát, các vị cần ghi tâm.
11- Này các đệ tử, nỗ lực tinh tấn thì
không việc gì khó khăn. Thế nên các vị phải siêng năng, tinh tấn như
giọt nước thường nhỏ có thể xuyên thủng đá. Người tu hành mà biếng nhác
thì khác nào như người cọ cây lấy lửa, cây chưa kịp nóng đã nghỉ, dầu
tha thiết được lửa, lửa cũng không vì thế mà có được. Hãy siêng năng
tinh tấn không dừng.
12- Này các đệ tử, thực ra cầu cạnh
thiện tri thức hay người trợ lực không bằng tự mình đề cao chánh niệm,
tỉnh thức. Có chánh niệm thì giặc phiền não không thể xâm nhập được.
Thế nên các vị phải sống trong sự
nhiếp niệm. Mất chánh niệm là đồng nghĩa với mất công đức. Có được
chánh niệm bền vững thì dù sống trong môi trường ngũ dục cũng chẳng hề
gì, như người chiến sĩ vào trận có mặc áo giáp thì không còn sợ gì nữa.
13- Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm
ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt
được trạng thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh
tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ
tiêu mất cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều.
Cũng vậy, muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định,
không để cho rỉ chảy.
14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì
không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người
ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí
tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững
chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh,
là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây
phiền não. Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng
trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là
người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật.
15. Này các đệ tử, hý luận chỉ làm cho
tâm trí rối loạn. Người xuất gia mà sống hý luận thì không thể đạt được
tuệ giác giải thoát. Vì thế các vị phải nhanh chóng từ bỏ vĩnh viễn tâm
lý hý luận, vô ích. Diệt trừ các hý luận tạp loạn mới có thể đạt được
an lạc tịch diệt.
16. Này các đệ tử, hãy thường xuyên
nhớ đến các công đức để từ bỏ tất cả mọi phóng dật, như là tránh xa bọn
giặc cướp tài sản thánh. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã tuyên nói
chánh pháp lợi ích rốt ráo. Về phần mình, các vị hãy nỗ lực tinh tấn
thường xuyên, đừng để cuộc đời trôi qua vô ích, sau này ăn năn, hối hận
đã muộn. Như Lai như là vị lương y, rõ biết bịnh lý, cho toa thuốc hợp
bịnh trạng từng người. Uống hay không uống không phải là lỗi của lương
y. Như Lai lại cũng như người chỉ đường, chỉ rõ đâu là con đường nên đi
và hướng đến giải thoát. Biết rõ đường lành mà không chịu cất bước lên
đường không phải là lỗi của vị đạo sư!
17. - “Này các đệ tử, đối với bốn chân
lý thánh, nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ
chỉ bày cho các con.” Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy, bốn chúng đều
im lặng, không ai còn thắc mắc.
Lúc ấy, tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có
thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà
Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ
của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù
ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp
vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ
và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn
đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác.
Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao
thượng nầy nữa.
18. Lúc bấy giờ trong chúng, hàng đệ
tử hữu học phải đối diện sự kiện Đức Phật sẽ vô dư Niết-bàn, đều bi cảm,
đau xót. Hàng đệ tử mới vào đạo nghe những lời dạy cuối cùng đều được
hóa độ, như trong đêm tối nhờ có ánh sáng, nên thấy đường đi. Các hàng
đệ tử vô học đã dứt sạch các phiền não, vượt ra khỏi sanh tử, vẫn không
ngăn được sự ngậm ngùi: “Tại sao Đức Thế Tôn vô dư Niết-bàn quá sớm !
Lúc đó, Đức Phật vì thương bốn chúng nên dạy thêm rằng:
- Này các đệ tử, chớ có thảm sầu, đau
xót. Dẫu Như Lai có sống thêm ở đời một kiếp nữa, rồi cũng phải đến ngày
Niết-bàn. Hội ngộ mà không chia tay; kết hợp mà không tan rã là điều
không thể có được.
Đối với Như Lai, kinh nghiệm và pháp
thức lợi mình, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố. Thật chẳng có lợi ích
gì, nếu Như Lai sống lâu nơi đời mà các vị không thực hành chánh pháp.
Những chúng sanh đáng độ, Như Lai đã độ hết. Những chúng sanh chưa được
độ, Như Lai cũng đã tạo nhân duyên để họ được hóa độ. Từ nay trở đi, đệ
tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là
cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất diệt ở thế
gian. Như Lai vô dư Niết-bàn hay không, việc đó không quan trọng.
Này các đệ tử, các vị nên nhận thức
rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biến, vô
thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyến,
thương tâm. Cuộc đời là như thế, các vị phải nỗ lực tinh tấn để tự giải
thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự
vận hành không kiên định. Như Lai vô dư Niết-bàn như bỏ đi một căn bệnh
dữ. Đó là năm nhóm nhân tính, mang tính tội lỗi, tạm gọi là thân, vì
thế, nó phải chịu sự chi phối không thương tiếc của già, bệnh và chết.
Bậc tuệ trí khi thoát khỏi nó có cảm tưởng như là dẹp xong được bọn
cướp. Như vậy, chết không đáng để hoan hỷ, an lạc hay sao ?
Này các đệ tử, các vị phải tha thiết
tìm kiếm con đường giải thoát. Toàn thể thế giới từ những vật thể đang
vận động cho đến các vật thể không vận động cũng đều không thường còn,
và không có thực thể, rồi phải đến lúc hoại diệt.
Thôi, các vị hãy yên lặng, đừng nói
thêm lời nào nữa ! Đã đến lúc Như Lai vô dư Niết-bàn. Đó là những lời
dạy cuối cùng của Như Lai.
DY Theo KT
« Quay lại