| 20/09/2014, 05:37 pm |
Đức Phật với phương pháp tu tập
1. Thanh lọc tâm như thợ vàng lọc vàng
Này các
Tỷ kheo, có những tạp chất xen lẫn trong vàng như bụi, cát, đá, sạn;
người thợ lọc vàng đem vàng đổ vào trong cái máng, rồi dội nước vào, dạu
qua dạu lại, rửa đi rửa lại. Làm như vậy xong, lúc bấy giờ vàng còn lại
các tạp chất nhỏ hơn, như cát đá sạn mịn, rồi người thợ lọc vàng rửa đi
rửa lại thêm nữa. Bây giờ, vàng còn dính chút ít cát mịn và bụi đen,
rồi người thợ lọc vàng rửa lần cuối cho hoàn toàn hết các tạp chất, chỉ
còn lại vàng khoáng.
Rồi người thợ vàng bỏ thỏi vàng ấy vào
trong cái lò, thụt ống bễ, thụt nhiều lần cho đến khi vàng bắt đầu chảy,
nhưng không chảy ra khỏi miệng lò. Thế rồi, người ấy tiếp tục thụt ống
bễ, nhưng vàng ấy chưa đạt được tinh chất, anh ta lại tiếp tục thụt ống
bễ cho đến khi miếng vàng trở nên nhu nhuyến, chói sáng, không bị bể
vụn, mềm dẻo dễ sử dụng. Giờ đây, nếu muốn làm thành kiềng vàng, hoa
tai, vòng xuyến hay chiếc nhẫn, người thợ kim hoàn có thể dùng thỏi vàng
ấy chế tạo những vật trang điểm mà mình mong muốn.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, khi tu tập tăng
thượng tâm, nếu các kiết sử thô tạp như thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác
hành còn tồn tại, Tỷ kheo phải nỗ lực tư duy, tìm cách loại bỏ, gột
sạch, dứt tuyệt, không cho sinh khởi trở lại. Khi làm như vậy xong, Tỷ
kheo tiếp tục tu tập tăng thượng tâm; nếu các kiết sử bậc trung như dục
tầm, sân tầm và hại tầm còn tồn tại, phải nỗ lực nhiều hơn nữa loại bỏ,
dứt tuyệt, không cho chúng sinh khởi trở lại. Khi làm như vậy hoàn tất,
Tỷ kheo lại tiếp tục tu tập tăng thượng tâm, nếu thấy các kiết sử vi tế
như ý tưởng về gia tộc, về quốc độ, về danh dự còn tồn tại, phải tiếp
tục nỗ lực diệt trì chúng, không cho chúng sinh khởi. Khi tâm đã nhu
nhuyến dễ sử dụng, nếu muốn đạt được các pháp thần thông, như thần túc
thông, thiên nhĩ thông v.v... Tỷ kheo có khả năng thành tựu các pháp
thần thông ấy”. (Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 3 pháp, phẩm Hạt muối, kẻ
lọc vàng, tr.459-61).
2. Tu tập như huấn luyện con ngựa
Tôn giả Bhaddali thiếu nghị lực chế ngự tự
thân, thường bị các dục vọng sai khiến. Ðể giáo hóa tôn giả về phương
pháp điều phục nội tâm, Ðức Phật trình bày về cách thức huấn luyện con
ngựa:
- Này Bhaddali, ví như một người huấn luyện
ngựa thiện nghệ, khi nhận được một con ngựa tốt, hiền thiện, trước hết
phải huấn luyện con ngựa ấy cho quen với dây cương. Trong khi huấn
luyện, nếu nó vùng vẫy, nhảy chồm, nhảy ngược, chống cự, vì trước đây
chưa được huấn luyện, huấn luyện viên cứ tiếp tục tập luyện, dần dần con
ngựa sẽ làm quen với dây cương. Thế rồi, huấn luyện viên lại huấn luyện
ngựa làm quen với yên ngựa. Khi huấn luyện, ngựa sẽ vùng vẫy, kháng cự,
nhưng huấn luyện viên kiên trì tập luyện, dần dần ngựa sẽ quen với yên
ngựa. Giờ đây, người huấn luyện lại tập luyện con ngựa diễu hành, đi
vòng quanh, đi bằng đầu móng chân, chạy nước đại, phi hết tốc lực, hí
vang v.v... Khi con ngựa đã luyện tập thuần thục các động tác trên, huấn
luyện viên lại tập ngựa làm quen với các vật trang sức như lục lạc,
vòng hoa, châu ngọc v.v... Này Bhaddali, khi con ngựa đã được tập luyện
thành thạo các việc kể trên, nó trở thành một tuấn mã, lương mã, một bảo
vật của quốc vương. Cũng vậy, này Bhaddali, một Tỷ kheo thành tựu các
đức tính thù thắng sẽ trở thành bậc đáng tôn kính, đáng trọng vọng, đáng
lễ bái, cúng dường, là phước điền vô thượng ở đời. Này Bhaddali, khi Tỷ
kheo thành tựu Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, Chánh trí và Chánh
giải thoát sẽ trở thành bậc đáng tôn kính, đáng trọng vọng, đáng lễ bái,
cúng dường, là phước điền vô thượng ở đời. (Kinh Trung Bộ III, kinh
Bhaddli 65, tr. 231-34)
3. Tu đúng phương pháp như lên dây đàn
Một thuở nọ Ðức Thế Tôn an trú tại núi Linh
Thứu, gần thành Vương Xá, còn Tôn giả Sona ở rừng Sita cách Vương Xá
không xa. Vì thiếu chánh niệm để phiền não chi phối, Sona muốn trở lại
đời sống thế tục, làm các công đức, hưởng thụ hạnh phúc như một người
bình thường. Với tha tâm thông, Thế Tôn biết tâm niệm của người đệ tử,
liền vận dụng thần túc đến trước Sana, hỏi thầy về những suy nghĩ vừa
rồi. Sona thú thực mình có suy nghĩ như vậy. Phật liền hỏi thầy về
phương pháp chơi đàn Tỳ bà - vốn là sở trườg của Sona - để khích lệ tôn
giả tiếp tục tinh tấn:
- Này Sona, ông nghĩ thế nào, khi các dây đàn Tỳ bà quá căng thẳng có phát âm đúng thanh điệu không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Khi dây đàn quá chùn, âm thanh có êm dịu không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Vậy khi vặn dây đàn không căng, không chùn, vừa đúng mức trung bình, âm thanh có êm ta không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Cũng vậy này Sona, khi tâm trí quá căng thẳng thì phát sinh dao động;
khi tâm trí quá thụ động thì đưa đến biếng nhác. Do vậy, ông cần phải
vận dụng tâm trí quân bình, không quá căng thẳng, cũng không quá thụ
động thì sự tu tập mới đạt được tiến bộ.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Sau khi vâng lời Thế Tôn chỉ giáo, tôn giả
Sona sống độc cư, an tịnh, không phóng dật, nỗ lực một cách quân bình,
nhờ vậy đã chứng đạt mục đích mà các thiện gia nam tử xuất gia kỳ vọng:
Vô thượng cứu cánh phạm hạnh, và an trú trong hiện tại. (Kinh Tăng Chi
Bộ, tập 3, chương 6 pháp, Ðại phẩm VI, (I) Sona, tr.155-58).
4. Tu phạm hạnh như người cày ruộng
Một hôm, vào buổi sáng, Thế Tôn khoác y, cầm
bát, đi khất thực ngang qua nông trường của Bà la môn Bhàradvaja. Trông
thấy Thế Tôn, Bà la môn nói:
- Này Sa môn, tôi cày và gieo lúa.
Sau khi cày và gieo lúa, tôi sử dụng sản phẩm đã thu hoạch. Vậy, Sa môn
có cày và gieo lúa, sau khi cày và gieo lúa, sử dụng sản phẩm đã thu
hoạch không?
- Này Bà la môn, Ta cũng có cày và gieo lúa; sau khi cày và gieo lúa, Ta sử dụng sản phẩm đã thu hoạch.
- Nhưng tôi đâu có thấy cái ách, bắp cày, lưỡi cày, chiếc roi và các
con bò của tôn giả Gotama mặc dù tôn giả nói: “Ta cũng có cày và gieo
lúa, sau khicày và gieo lúa, ta sử dụng sản phẩm đã thu hoạch?”.
Rồi Thế Tôn dùng kệ trả lời Bà la môn:
Lòng tin là hạt giống,
Khổ hạnh là trận mưa
Trí tuệ đối với ta,
Là cày và cái ác
Tàm quí là bắp cày,
Ý căn là dây buộc.
Chánh niệm là lưỡi cày
Thân, khẩu được hộ trì,
Ta nhổ lên tà vạy,
Chứng đạt chân giải thoát.
... Như vậy cày ruộng này,
Ðưa đến quả bất tử.
(Tương Ưng Bộ kinh tập I, chương VII, II. phẩm Cư sĩ, 1. Cày ruộng, tr.213)
5. Hộ trì các căn như rùa sợ chó sói
Ðức Thế Tôn nói với các Tỷ kheo: “Này các Tỷ
kheo, vào buổi chiều một bữa nọ, con rùa và con chó sói cùng đi tìm
mồi. Rùa trông thấy chó sói từ đàng xa, liền thụt 4 chân và cổ vào trong
mai, nằm im lặng, bất động. Từ đàng xa, chó sói trông thấy rùa, liền đi
đến gần bên, suy nghĩ: “Khi con rùa này thò ra bộ phận nào, ta sẽ chụp
lấy, bẻ gãy, rồi xơi tái”. Thế nhưng, con rùa không thò ra bộ phận nào
cả; chó sói không tìm được cơ hội, nên chán ngán bỏ đi.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, ác ma thường
xuyên ở trong tư thế rình rập các ngươi với suy nghĩ: “Rất có thể ta sẽ
nắm được cơ hội do sự thiếu cảnh giác của các Tỷ kheo, đối với đôi
mắt... cái lưỡi... ý căn của họ”.
Do đó, các ngươi phải luôn luôn tỉnh táo hộ
trì các căn: Khi mắt thấy sắc đẹp, không nên đắm trước toàn bộ hay các
chi tiết. Nếu thấy những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được hộ trì,
khiến tham ái, ưu bi, các ác hạnh sinh khởi, hãy chế ngự nguyên nhân ấy,
nỗ lực hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... Mũi ngửi hương... Lưỡi
nếm vị... Thân cảm xúc... Ý nhận thức các pháp, không nên đắm trước toàn
bộ hay các chi tiết. Nếu thấy những nguyên nhân gì, vì ý căn không được
chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác hạnh sinh khởi, hãy chế ngự
nguyên nhân ấy, nỗ lực hộ trì ý căn.
Này các Tỷ kheo, khi nào các ngươi sống hộ
trì các căn thì ác ma sẽ không nắm được cơ hội, chán ngán các ngươi rồi
bỏ đi cũng như con chó sói đối với con rùa như vậy”. (Tương Ưng Bộ kinh,
tập IV, phần 4, phẩm 4: Rắn độc, đoạn III: con rùa, tr.184).
6. Cây khô mới lấy được lửa
Một hôm, Ðức Thế Tôn gặp Aggivessana, đệ tử của phái Ni Kiền Tử, Ngài thuyết giảng cho ông về cách lấy lửa từ trong cây:
- Này Aggivessana, ví như có một khúc cây đầy nhựa sống, đặt trong nước
ẩm ướt, rồi một người cầm dụng cụ lấy lửa đến khúc cây ấy, suy nghĩ:
“Ta sẽ kéo lửa, làm cho sức nóng xuất hiện”. Vậy, anh ta có thể dùng
dụng cụ kéo lửa cọ xát khúc cây ấy cho sức nóng xuất hiện được không?
- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì khúc cây ấy ẩm ướt, nên anh ta có hì hục kéo cách mấy lửa cũng không thể xuất hiện.
- Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa môn, Bà la môn nào sống không xả
ly, không đoạn trừ các dục của thân và tâm, như dục tham, dục hôn ám,
dục khát ái, dục nhiệt não, thì không thể tự nhiên chứng được tri kiến
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và nếu như thình lình cảm thọ những cảm
giác đau nhói khốc liệt thì họ cũng không thể chứng được tri kiến Vô
thượng Chánh giác.
Này Aggivessana, ví như một khúc cây đẫm
ướt, đầy nhựa sống, được vớt lên khỏi nước, đặt trên đất khô, rồi người
kia cầm dụng cụ đến cọ xát làm cho lửa xuất hiện được không?
- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì khúc cây ấy đẫm ướt, nên người ấy chỉ chuốc lấy mệt mỏi và bực bội mà thôi.
- Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa môn, Bà la môn nào không xả ly
các dục về thân và tâm thì không thể chứng được tri kiến Vô thượng Chánh
giác.
Này Aggivessana, ví như có một khúc cây khô,
không có nhựa, được vớt khỏi nước, đặt trên đất khô, rồi một người cầm
dụng cụ lấy lửa đến, suy nghĩ: “Ta sẽ lấy lửa, ánh lửa sẽ hiện ra”. Ông
nghĩ thế nào? Người ấy có thể làm cho lửa xuất hiện được không?
- Thưa được, Tôn giả Gotama. Vì khúc cây ấy khô, không có nhựa, lại được vớt lên khỏi nước, đặt trên đất khô.
- Cũng vậy, này Aggivessana, những tôn giả Sa môn, Bà la môn nào sống
xả ly các dục về thân và tâm, đã đoạn tuyệt khát ái..., thì có thể tự
nhiên chứng được tri kiến Vô thượng Chánh giác; hoặc thình lình cảm thọ
những cảm giác đau nhói, sẽ chứng được tri kiến Vô thượng Chánh giác.
(Trung Bộ kinh, tập 1, kinh 36: Saccaka, tr.528-31).
7. Người tu như khúc gỗ trôi theo dòng nước
Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn trú tại Kosambi,
trên bờ sông Hằng, trông thấy một khúc gỗ trôi theo dòng nước, liền nói
với các Tỷ kheo:
- Này các Tỷ kheo, nếu khúc gỗ ấy không tấp vào
bờ bên này, không tấp vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc
cạn trên cồn cát, không bị con người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt
lấy, không bị cuốn vào nước xoáy, không bị mục nát bên trong, thì nó sẽ
hướng về biển, xuôi về biển, trôi nhập vào trong biển. Vì cớ sao? Vì
dòng sông Hằng hướng về biển, xuôi về biển, trôi nhập vào trong biển.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, nếu các ngươi
không tấp vào bờ bên này..., các ngươi sẽ hướng về Niết bàn, xuôi về
Niết bàn, trôi nhập vào Niết bàn.
- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giải thích ý nghĩa các ví dụ mà Thế Tôn vừa nêu.
- Này các Tỷ kheo, bờ bên này đồng nghĩa với 6 nội xứ bờ bên kia đồng
nghĩa với 6 ngoại xứ; bị chìm giữa dòng đồng nghĩa với hỷ tham bị mắc
cạn trên cồn cát đồng nghĩa với ngã mạn bị cuốn vào nước xoáy đồng nghĩa
với 5 dục công đức bị con người nhặt lấy nghĩa là sống quan hệ mật
thiết với cư sĩ, chung vui, chung buồn, an lạc khi họ an lạc, đau khổ
khi họ đau khổ, tự trói mình vào công việc mà họ phải làm.
Bị phi nhân nhặt lấy nghĩa là sống phạm hạnh
với hy vọng: “Với giới luật, khổ hạnh, phạm hạnh này, ta sẽ trở thành
Thiên nhân hay một Phạm Thiên”.
Bị mục nát bên trong nghĩa là thọ tà giới,
theo ác pháp, sống bất tịnh, có những hành vi đáng ngờ vực, có những
hành động mờ ám được che đậy; không phải Sa môn nhưng hiện tướng Sa môn,
không phải phạm hạnh nhưng hiện tướng phạm hạnh, nội tâm hủ bại, chứa
đầy dục vọng như đống rác bẩn.
Này các Tỷ kheo, đó là ý nghĩa những ví dụ mà Ta đã nêu trên. (Tương Ưng Bộ kinh, tập IV, phẩm 4, đoạn 4: khúc gỗ, tr.185-7).
Trên đây, chúng tôi đã
giới thiệu 7 ví dụ về phương pháp tu tập mà Ðức Phật đã bi mẫn giảng
dạy cho các đệ tử xuất gia. Nhân mùa Phật Ðản, chúng ta có thể cố gắng
tìm hiểu và giới thiệu cho người khác cùng hiểu những lời dạy vừa vui
tươi, vừa thâm thúy của bậc Ðạo Sư; rồi vận dụng vào trong đời sống hằng
ngày, hầu hoàn thiện chính mình và hoàn thiện người khác; thiết nghĩ,
đó cũng là một trong những cử chỉ cúng dường rất ý nghĩa nhân ngày Ðản
sinh của Ðức Từ Phụ.
DY Theo CHP
« Quay lại