Hotline: 0989.989.989    |   Liên hệ        
| 12/12/2014, 12:18 pm |

Kinh Nhân Quả Phước Đức


(Tintuc.OHO.vn) Ở đây, nhân vật chính thưa hỏi đạo lý là người Trời, đại diện cho chư Thiên và nhân loại ở thế gian này. Vì muốn lợi ích cho nhiều người ở thế gian mà chư Thiên cõi trời đến thưa hỏi đạo lý với đức Phật. Thường thì chúng ta hay dùng hai chữ phước và đức đi đôi với nhau, nhưng hai từ này có ý nghĩa khác nhau. Phước là việc làm bên ngoài như giúp đỡ một ai đó, đức là cái tốt ngay bên trong, như khi bị người mắng chửi mà ta vẫn bình thản, an nhiên, không có tâm bực bội, khó chịu, hay buồn phiền người kia. Phước là những việc làm từ bên ngoài phát xuất từ ý nghĩ, lời nói, rồi dẫn đến hành động, như bố thí hay giúp đỡ một ai đó, đem đến an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Nếu bây giờ ta không biết gieo trồng phước đức mà muốn hưởng phước báu là chuyện vô lý, không thể được.



http://cms.kienthuc.net.vn/static/images/dataimages/201212/original/images1086488_4.jpg



Từ xưa nay có nhiều chuyện thật là trái ngang như vậy, rất hiếm có những người con nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ lo từ vật chất cho đến tinh thần. Vậy mà có người mới vừa nuôi cha mẹ một chút đã kể công đủ thứ hoặc tệ hại hơn tìm cách tránh né trách nhiệm bổn phận làm con. Thật tế trong cuộc sống con bỏ cha mẹ thì nhiều chứ ít có cha mẹ nào bỏ con. Đức phật của chúng ta là một người con đại hiếu, sau khi thành đạo Ngài đã dùng thần lực lên cõi trời Đao Lợi để hướng dẫn cho mẹ mà chỉ dạy pháp giác ngộ và giải thoát. Đến khi vua cha bệnh nặng ngài về khai thị để cha được chứng quả thánh và chính ngài đích thân gánh kim quan của cha đi thiêu mà làm gương cho nhân loại.

  Trong các bản kinh ngài thường dạy các thiện nam tín nữ ngoài việc lo chăm sóc chu đáo về mọi mặt, khuyên cha mẹ quy y Tam bảo hoặc xuất gia tu hạnh giác ngộ và giải thoát, đây mới là người con đại hiếu. Biết ơn và đền ơn là giáo lý nền tảng của đạo Phật nên trong kinh nhân quả ba đời Phật dạy người Phật tử chân chánh trước tiên phải biết hiếu dưỡng cung kính đối với cha mẹ, sau đó rồi mới quý kinh tôn trọng Tam bảo, kế đến là bố thí cúng dường phóng sinh giúp người cứu vật và cuối cùng ăn chay làm lành lánh dữ. Một con người nếu không biết hiếu thảo đối với cha mẹ, thì khó mà làm ăn thành đạt được vì ơn nghĩa hai đấng sinh thành mình còn chối bỏ thử hỏi người đó có bao giờ sống tốt với tha nhân được không? Đối với cha mẹ mình mà ta còn làm ngơ không chút thương xót, không biết hiếu nghĩa, hiếu kính, hiếu hạnh, hiếu tâm. Một người như thế thì việc ác nào cũng có thể làm, thì thử hỏi làm sao mà họ tín kinh Tam bảo được. Nếu vậy thì làm sao họ có tâm giúp người cứu vật mà làm lành lánh dữ. Một con người không có những chất liệu trên nếu có sống chẳng giúp ích gì được cho ai, ngược lại còn làm tổn hại cho nhân loại. Biết ơn và đền ơn là giáo lý nền tảng của người Phật tử chân chánh, khi thọ ơn ai dù là một việc nhỏ cũng không bao giờ quên. Người thế gian gọi đó là người tốt, người sống có tình có nghĩa, ngược lại khi thọ ơn ai mà vờ làm lơ có khi còn đối xử tệ bạc với người ơn của mình nữa, thế gian gọi đó là kẻ tiểu nhân, là người vong ơn bội nghĩa. Vậy cuộc sống này biết ơn và đền ơn là nền tảng đạo đức sống của nhân loại, cho nên ơn nghĩa là cái gốc của đạo làm người. Con cái luôn hiếu kính với cha mẹ vì biết ơn mang nặng đẻ đau, sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, học trò quý kính thầy cô chăm chỉ học hành vì biết ơn thầy cô. Trong cuộc sống Phật thường nêu lên bốn ơn để khuyên nhủ và răn dạy mọi người, nhất là ơn cha mẹ thật là cao cả. Sự sống của chúng ta ai là người con hiếu kính thì ăn nên làm ra công thành danh toại, chứ ít khi có người con nào bất hiếu mà làm nên sự nghiệp. Đa số người con bất hiếu đều dính vào vòng tệ nạn xã hội, cha mẹ mình mà còn không biết ơn nghĩa, thử hỏi làm sao mở rộng tấm lòng giúp đỡ người khác. Do đó người con bất hiếu luôn thất bại trong cuộc sống, mà thường xuyên bị cạm bẫy cuộc đời cuốn trôi nên sống trong đau khổ làm mê. Phật dạy niềm vui của bậc hiền Thánh là biết hiếu kính với cha mẹ, nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng cúng dường cho người tu là có phước, nên nghe đồn ở đâu có linh ứng một chút thì đùng đùng kéo đến để cúng dường bỏ mặc cha mẹ mình ở nhà chịu khổ sở thiếu thốn, tu như vậy là đi ngược lại lời Phật dạy. Trên đời này ai còn đủ mẹ cha là một điều thật hạnh phúc lớn lao, vì ta còn có cơ hội báo hiếu chăm lo phần vật chất lẫn tinh thần, giúp cha mẹ an vui trong tuổi già nhờ biết quy hướng Tam bảo. Người con hiếu trước tiên phải biết vâng lời và kính trọng cha mẹ cho nên ca dao có câu:

“Cá không ăn muối cá ươn,

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.

   Do đó, thương cha mến mẹ con làm, không sợ tốn kém không nề gian nan. Công cha nghĩa mẹ khó đền, vào thưa ra hỏi mới là đạo con. Biết quan tâm lo lắng giúp đỡ để cho cha mẹ được an vui và một lòng tôn kính quý trọng. Kinh Bổn sự Phật dạy:

   Giả sử có một người nào một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, suốt đời không bao giờ dừng nghỉ, lại còn cung cấp cho cha mẹ đầy đủ các thức ăn, vật dụng thuốc thang đến trăm ngàn kiếp cũng không thể trả hết công ơn của cha mẹ. Còn nếu, khuyên cha mẹ biết quy y Tam bảo giữ gìn năm điều đạo đức không làm tổn hại cho tất cả chúng sinh, đó là cách báo hiếu cao cả nhất vì giúp cho cha mẹ sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Trước đó người dưỡng nuôi thái tữ là dì mẫu muốn xuất gia để sống đời giải thoát, đã xin Phật nhiều lần mà không được chấp nhận. Ngài A Nan mới nhắc lại công ơn nuôi dưỡng thì Phật mới nói rằng, ta đã hướng dẫn cho dì mẫu quy y Tam bảo giữ năm giới cấm, tu mười điều lành như thế là đã trả ơn cho dì mẫu rồi. Nhưng cuối cùng Phật mới cho xuất gia  sau nhiều lần khuyến dạy giữ tám điều tôn kính chư Tăng. Xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ phân chia giai cấp thống trị và nô lệ, người nữ không có quyền tham dự vào công việc xã hội, huống hồ là tham gia vào sự tu học của bậc hiền thánh. Và cuối cùng khuyên cha mẹ được xuất gia, đó mới là người con đại hiếu, cha mẹ biết tu hành để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. Hôm nay nhân nghĩ đến công khó nhọc của mẹ suốt một đời vì con trẻ, con có chút lòng thành nguyện cầu hồng ân Tam bảo luôn gia hộ cho mẹ ở đời sống kế tiếp cùng tất cả chúng sinh luôn sống với nhau bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

 

Tôi được nghe như vầy, một thời Thế tôn an trú tại thành Xá Vệ, nơi rừng cây Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc. Đêm hôm đó trời đã khuya, bỗng cả khu vườn hiện lên ánh hào quang sáng chói bởi một chư Thiên muốn gặp Phật để tham vấn đạo lý. Sau khi đảnh lễ đức Thế tôn, chư Thiên ngồi sang một bên rồi thưa hỏi rằng: “Chư Thiên cùng nhân loại làm thế nào để được sống bình yên và hạnh phúc? Kính xin Thế tôn chỉ dạy” “Lành thay! Lành thay! Thiên nhân khéo biết cách thưa hỏi, ta sẽ vì ngươi chỉ dạy 10 phương pháp gieo trồng phước đức, để làm lợi lạc cho Trời Người trong hiện tại và mai sau”.

1-Phương pháp thứ nhất là

Luôn gần gũi người hiền

Lánh xa kẻ xấu ác

Tôn kính bậc đáng kính

Là phước đức lớn nhất.

2-Phương pháp thứ hai là

Biết chọn môi trường tốt

Để làm các việc lành

Cùng hướng về đường thiện

Là phước đức lớn nhất.

3-Phương pháp thứ ba là

Siêng học lại giỏi nghề

Biết giữ gìn đạo đức

Biết nói lời ái ngữ

Là phước đức lớn nhất.

4-Phương pháp thứ tư là

Biết hiếu dưỡng cha mẹ

Thương yêu gia đình mình

Lại làm nghề thích hợp

Là phước đức lớn nhất.

5-Phương pháp thứ năm là

Sống vui vẻ bố thí

Giúp gia đình người thân

Bình đẳng tùy theo duyên

Là phước đức lớn nhất. 

6-Phương pháp thứ sáu là

Tránh không làm điều ác

Không say sưa, nghiện ngập

Siêng năng làm việc lành

Là phước đức lớn nhất.

7-Phương pháp thứ bảy là

Biết khiêm cung lễ độ

Để học hỏi điều hay

Nhớ ơn và biết đủ

Là phước đức lớn nhất

8- Phương pháp thứ tám là

Biết kiên trì phục thiện

Thân cận bậc hiền Thánh

Siêng năng cùng tu học

Là phước đức lớn nhất.

9-Phương pháp thứ chín là

Sống tinh cần tỉnh thức

Biết quay lại chính mình

Để sống đời giải thoát

Là phước đức lớn nhất.

10- Phương pháp thứ mười là

Làm việc cùng mọi người

Tâm không hề thay đổi

Não phiền dứt, an nhiên

Là phước đức lớn nhất.

Sau đó Phật xác định bằng một bài kệ:

Ai sống được như vậy

Ở đâu cũng hạnh phúc

An nhiên và tự tại

Vì phước đức vẹn toàn.

Phật vừa dứt lời, chư Thiên và đại chúng đồng hoan hỷ, vui vẻ cùng phát nguyện làm theo. CHÚ GIẢI KINH NHÂN QUẢ PHƯỚC ĐỨC

Bản kinh Phước Đức ngắn gọn, súc tích, nghĩa lý rõ ràng, có thể đưa vào Kinh Nhật Tụng để hàng Phật tử chúng ta đọc tụng hằng ngày.

Chúng tôi mạnh dạn đặt lại tên là Kinh Nhân Quả Phước Đức để được đầy đủ ý nghĩa hơn. Duyên khởi để Thế Tôn ban pháp thoại này phát xuất từ lời thỉnh cầu của một vị Trời mong muốn biết được cách thức thực hành gieo trồng phước đức, nhằm xây dựng đời sống bình an, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Chư thiên là loài được xem là có phước đức hơn hết so với các loài trong 6 đường luân hồi sinh tử, mà còn cầu thỉnh đức Thế Tôn nói về cách thức gieo trồng phước đức, để biết cách tích lũy kiện toàn phước báo cho tự thân, huống gì loài người và nhất là hàng hậu học chúng ta. 

Kinh là gì? Kinh là lời Phật dạy bằng tiếng Phạn, nói cho đủ là Tu Đa La, người Trung Hoa dịch là Khế Kinh. Khế Kinh có nghĩa là khế lý và khế cơ. Khế lý là sao? Là luôn đúng với lý giác ngộ, giải thoát của chư Phật, tức là dù trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu sự thăng trầm của cuộc sống, nhưng lời Phật dạy vẫn giúp con người biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời để sống bình yên, hạnh phúc. Khế cơ là khế hợp với tất cả mọi người, dù là người cổ xưa hay là người văn minh hiện đại, đều có thể áp dụng tu hành mà chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Ngày xưa, Phật nói Kinh tùy theo căn cơ, trình độ và sự hiểu biết của nhiều người, bởi chúng ta huân tập nghiệp nhân không đồng nên Phật nói Kinh là tùy bệnh cho thuốc. Chúng ta có nhiều bệnh, Phật có nhiều thuốc, nên ai hợp với thuốc nào thì uống thuốc đó sẽ mau lành và mau hết bệnh. Người nói lại kinh này là thầy A Nan, Ngài là một trong mười vị đệ tử xuất cách nhất thời Phật còn tại thế, thầy có tài nhớ giỏi và nói lại không thiếu một chữ, nhờ có thầy xin Phật mà phái nữ được xuất gia tu  học bình đẳng với nam giới. Bài Kinh được nói tại Tịnh xá Kỳ Viên, rừng Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc, thành Xá Vệ. Kỳ Đà là tên của thái tử con vua Ba Tư Nặc, thái tử Kỳ Đà được sinh ra đúng ngày vua Ba Tư Nặc chiến thắng quân giặc phiến loạn. Nhân ngày chiến thắng đó mà đặt tên cho con mình là Kỳ Đà, có nghĩa là chiến thắng. Cấp Cô Độc là vị đại thí chủ nổi tiếng thời đức Phật. Ngoài việc hộ trì Tam bảo, cúng dường tứ sự cho chư Tăng, ngài còn san sẻ, giúp đỡ cho người bất hạnh vô điều kiện, nên được người đời ban tặng cho danh hiệu Cấp Cô Độc. Ngài cúng dường chư Tăng và giúp đỡ kẻ nghèo khổ bần cùng y như những người thân của mình.

Theo lịch sử, sau khi ngài gặp Phật và có lòng tin lớn đối với Tam Bảo, nên phát tâm mua một miếng đất đẹp xây dựng Tịnh xá để có chỗ cho chư Tăng tu học và hướng dẫn cho mọi người cùng tu theo. Tìm mãi chẳng thấy miếng đất nào vừa ý để xây dựng, chỉ có miếng đất của thái tử Kỳ Đà con vua Ba Tư Nặc là đầy đủ điều kiện đẹp đẽ, hùng vĩ và trang nghiêm. Nhưng thái tử Kỳ Đà là một người giàu có, ông đâu cần tiền bạc để phải bán đất, nên khi Ngài Cấp Cô Độc tới đặt điều kiện mua đất làm Tịnh xá cho Phật, Thái tử nói giá trên trời dưới đất để ông đi tìm chỗ khác mà mua,  “nếu ông đủ khả năng lấy vàng trải đầy đất thì ta sẽ bán cho ông”. Không ngờ, lời nói chơi đó đã trở thành sự thật. Sợ Thái tử đổi ý nên sáng hôm sau ông Cấp Cô Độc đã tranh thủ cho người chở đầy các xe vàng đến để lót vào đất. Đang lúc mọi người lót vàng vào đất thì ông mới đứng trầm tư suy nghĩ, thái tử Kỳ Đà tưởng ông thối Bồ Đề Tâm nên mới đến hỏi, “bộ ông hối hận hay sao mà đứng ngẩn người ra như thế?” Cấp Cô Độc trả lời, “tôi đang suy nghĩ nên lấy số vàng ở kho nào để lót cho được đầy đủ số đất còn lại mà khỏi phải mất thời gian”. Thái tử Kỳ Đà rất đỗi ngạc nhiên, không biết Phật là ai mà ông này dám bỏ ra gần hết gia tài để mua đất làm Tịnh xá cúng dường cho Phật. Cấp Cô Độc lúc bấy giờ mới nói, “Thái tử không biết đó sao? Phật trước kia là một hoàng thái tử được kế thừa ngôi vua, nhưng Ngài đã từ bỏ hết tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ, để tu hành sống đời đơn giản, tìm ra thân phận của kiếp người, biết cách làm chủ bản thân để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Ngài đã mở ra một trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, đi ngược lại các tập tục của thời xa xưa mà không bị lệ thuộc vào đấng thần linh thượng đế ban phước, giáng họa. Ngài đã thật sự giác ngộ giải thoát, không còn bị sự trói buộc bởi các dục lạc thế gian như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung, mặc sướng, ngủ nhiều”. Nghe tới đây, thái tử Kỳ Đà như được rót mật ngọt vào tai, cảm thấy trong lòng bình yên, hạnh phúc làm sao, nên liền phát tín tâm tôn kính đức Phật. Thái tử nói với Cấp Cô Độc, “ông khỏi cần phải lót vàng vào đất nữa, bao nhiêu đây là đủ rồi. Đất là phần của ông cúng dường, rừng cây hoa lá cùng hồ ao, suối nước mát trong là phần của tôi, xin được cúng dường cho Phật”. Cho nên, ngày hôm nay khi chúng ta nghe bài kinh nào Phật nói tại thành Xá Vệ, thì ta có thể biết được tích truyện của thái tử Kỳ Đà và ông Cấp Cô Độc, hai người đã đồng phát tâm cúng dường Phật.

Cấp Cô Độc cả một đời kính tin Tam bảo nên làm việc bố thí cúng dường cho chư Tăng ni không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, lại hay giúp đỡ người nghèo khó, cô độc, bệnh hoạn, nên được mọi người tặng cho danh hiệu Cấp Cô Độc. Cấp có nghĩa là cho, là giúp đỡ, san sẻ với người bần cùng, cô độc, bệnh hoạn, tàn tật, không người nuôi dưỡng. Vậy mà, có lúc gia đình ông cũng bị thiên tai dẫn đến tán gia bại sản, đến khi cả nhà ăn cháo mà ông vẫn một lòng tín tâm với Tam bảo để cúng dường chư Tăng ni. Đức Phật biết được hoàn cảnh gia đình ông lúc này đang gặp khó khăn quá mức, nên khuyên ông hãy thôi cúng dường mà dùng vật thực đó nuôi gia đình. Do lòng tin sâu đối với Tam bảo, ông vẫn duy trì sự cúng dường hằng ngày. Nhờ công đức cúng dường Tam bảo với lòng thành quá lớn, nên sau cơn mưa trời lại sáng. Một thời gian sau, gia đình ông được phục hồi tài sản trở lại và giàu có hơn xưa rất nhiều. Theo sử liệu ghi lại, Phật ở tại Tịnh xá của ông và Thái tử cúng dường suốt 25 mùa An Cư Kiết Hạ, trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp.

Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng ngời về hạnh bố thí, cúng dường Tam bảo và hết lòng cưu mang, giúp đỡ nhiều người bất hạnh với tinh thần thương yêu bằng trái tim hiểu biết, luôn sống vì lợi ích tha nhân. Ngài là một cư sĩ tại gia xứng đáng được người đời tặng cho danh hiệu vẹn toàn về hai mặt phước và đức. Làm phước, bố thí, cúng dường hay nâng đỡ cho nhau là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại, là cách thức để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, nhằm giúp cho ta và người cùng ngồi lại bên nhau để được sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Trong dân gian Việt Nam có câu: Ăn thì hết, cho thì còn.

Tại sao có chuyện lạ đời như vậy? Câu này nghe nói như ngược đời, nhưng thực tế quả thật không sai chút nào. Cái gì ta đang hưởng thụ, tiêu xài cho riêng mình thì không còn, nên nói ăn thì hết. Còn cái gì ta đang có mà dám đem ra giúp cho người thì cái đó mới chính là của ta, nên mới nói cho là còn. Giống như người có tiền gửi vào ngân hàng, khi nào cần thì ta rút ra xài. Bố thí, cúng dường hay san sẻ, giúp đỡ là nấc thang đầu tiên giúp mọi người gần lại bên nhau vì sự yêu thương, quý mến, nên ta dễ dàng cảm thông và tha thứ, khoan dung và độ lượng; do đó thấy ai cũng là người thân, người thương của mình. Đạo lý nhà Phật giúp ta mở rộng tấm lòng từ bi sáng ngời về hạt giống yêu thương từ việc bố thí, giúp đỡ chúng sinh bình đẳng qua nhiều hình thức. Từ đó, ta thấy việc làm bố thí, chia sẻ quan trọng ở tâm chân thành, nhờ vậy chúng ta sống với nhau có yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống. Bố thí cúng dường là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày càng thêm gắn bó, sâu sắc với nhau, bởi sự giúp đỡ, sẻ chia làm giảm bớt ân oán, hận thù. Bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia là nấc thang đầu tiên giúp các vị Bồ tát từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ đóng góp, giúp đỡ, sẻ chia mà tâm ta an lạc, bình yên, hạnh phúc, nên ta thấy ai cũng là người thân, người thương của mình mà sống với nhau bằng trái tim hiểu biết.

Nếu nói về làm phước, bố thí, cúng dường thời Phật còn tại thế thì khó có ai có thể bì kịp với cư sĩ Cấp Cô Độc. Khoảng cuối đời, cư sĩ Cấp Cô độc bị bệnh nặng. Được tin, Phật bảo ngài Xá Lợi Phất và ngài A Nan trực tiếp đến thăm hỏi bệnh của ông có thuyên giảm chút nào hay không. Cấp Cô Độc trả lời, “Dạ, bệnh tình của con không hề giảm bớt mà còn nặng thêm, cơ thể của con đau nhức rã rời, khó bề qua khỏi”. Nhân đó, thầy Xá Lợi Phất mới chỉ dạy pháp tu rốt ráo cho cư sĩ quán niệm về Phật-Pháp-Tăng.

“Phật là bậc giác ngộ chân chánh, là người tỉnh thức, là người đã vượt qua cạm bẫy cuộc đời, là người thấy đúng như thật, biết rõ thực hư của cuộc đời, là bậc đáng được tôn kính và xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của mọi người. Pháp là những lời dạy vàng ngọc của Ngài, giúp cho mọi người chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Tăng là đoàn thể sống hòa hợp, hạnh phúc dưới sự chỉ dạy của Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho mọi người biết được chân lý của cuộc đời mà cùng tu theo. Cư sĩ thường xuyên quán niệm như thế thì sẽ được tăng trưởng phước báo và dần hồi giảm bớt tội chướng cùng với các phiền não khổ đau. Sau khi mạng chung sẽ được tái sinh vào các cõi Trời Người mà hưởng phước an vui, hạnh phúc.

Và cư sĩ nên tinh cần quán chiếu, soi sáng như sau: con mắt thấy sắc không bị sắc làm lay động, thấy chỉ là thấy, thấy một cách rõ ràng, không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết như thế đó, không một niệm nghĩ suy phân biệt, cái này đẹp hay cái kia xấu, vì con mắt và hình sắc không phải là tôi và của tôi. Tương tự tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.

Cư sĩ hãy nên xem xét, quán sát rằng, mọi pháp đều do nhân duyên sinh và nhân duyên diệt, không có thực thể cố định, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Trong thân này do 4 chất đất-nước- gió-lửa hòa hợp lại mà hình thành, không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật. Ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu, mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã rồi muốn chiếm hữu. Ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh; do vô minh mà sinh ra vọng động; do có vọng động mà sinh ra vọng thức; do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta-người, do có sự phân biệt ta-người mà sinh ra xúc chạm; do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ; do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc, và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ. Cư sĩ nên tinh cần quán chiếu sâu sắc như thế, cái gì có hình tướng đều vô thường, bại hoại, nên không có thật ngã”.

Nghe đến đây, cư sĩ Cấp Cô Độc nước mắt ràn rụa vì đã nghe được điều chưa từng nghe từ trước đến nay. Ngài A Nan thấy thế, tưởng cư sĩ bất an, không kham nỗi giáo pháp siêu tuyệt giải thoát, nên mới hỏi Cấp Cô Độc, “cư sĩ vì sao lại thế?” Lúc này, Cấp Cô Độc mới nói trong nghẹn ngào, xúc động, “không ngờ đến giờ con mới được nghe giáo pháp thậm thâm, vi diệu, sâu xa như thế, giúp con thể nhập được lời dạy của Phật nên con mới xúc động như vậy”. Ngài A Nan nói, “giáo pháp này đức Phật thường xuyên hướng dẫn cho chư Tăng Ni” “Nếu vậy, xin phiền thầy nói lại với Phật, hãy nói pháp giác ngộ giải thoát này để hướng dẫn cho hàng cư sĩ chúng con được biết để tu theo”. Nói xong, Cấp Cô Độc cảm thấy trong lòng an ổn, nhẹ nhàng, vì đã thâm nhập được đầy đủ pháp giác ngộ, giải thoát. Sau khi hai thầy Xá Lợi Phất và A Nan ra về, một hồi sau Cấp Cô Độc an nhiên xả bỏ xác thân và được sinh về cõi trời thứ 33 để hưởng phước báo vô lượng, vô biên, muốn gì được đó.

Kinh Phước Đức nằm trong tạng Kinh nguyên thủy, thuộc Tiểu Bộ Kinh, nói cho đầy đủ là Kinh Nhân Quả Phước Đức. Kinh này do Phật nói, vậy Phật là gì? Phật nói cho đủ là Phật đà, có nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức, người luôn sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nói gọn lại là Phật. Ở đây, nhân vật chính thưa hỏi đạo lý là người Trời, đại diện cho chư Thiên và nhân loại ở thế gian này. Vì muốn lợi ích cho nhiều người ở thế gian mà chư Thiên cõi trời đến thưa hỏi đạo lý với đức Phật. Thường thì chúng ta hay dùng hai chữ phước và đức đi đôi với nhau, nhưng hai từ này có ý nghĩa khác nhau. Phước là việc làm bên ngoài như giúp đỡ một ai đó, đức là cái tốt ngay bên trong, như khi bị người mắng chửi mà ta vẫn bình thản, an nhiên, không có tâm bực bội, khó chịu, hay buồn phiền người kia. Phước là những việc làm từ bên ngoài phát xuất từ ý nghĩ, lời nói, rồi dẫn đến hành động, như bố thí hay giúp đỡ một ai đó, đem đến an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Nếu bây giờ ta không biết gieo trồng phước đức mà muốn hưởng phước báu là chuyện vô lý, không thể được.

Ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước, biết rõ được cội nguồn của an vui, hạnh phúc thì ta càng làm phước nhiều hơn nữa. Một ngày ta có mặt trong cuộc đời là một ngày ta phải sống sao cho có ích cho mình và người, ta cố gắng không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nợ nần chồng chất. Trong gia đình sống không biết kính trên nhường dưới, thường xuyên gây gỗ, bất hòa với nhau thì ta gọi là người thiếu phước đức. Một là vì ta cung kính, tôn trọng mà bố thí, cúng dường; hai là vì thương người mà ta muốn giúp đỡ, chia sẻ nỗi khổ, niềm đau để làm vơi bớt khó khăn, bất hạnh. Người làm phước là người biết làm việc thiện lành, tốt đẹp, luôn giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên, khi có điều kiện, nên rất được mọi người quý mến, ưa thích gần gũi. Người đã từng bố thí hay giúp đỡ nhiều cho nhân loại thì lúc nào cũng được quyền cao chức trọng và giàu sang danh giá. Người chuyên siêng năng, tinh cần tu hành, chuyển hóa nội tâm của mình được trong sạch nhờ biết giữ gìn giới pháp, tu tập thiền định để dứt trừ phiền não, tham-sân-si, người như vậy gọi là người có đức vì không bị tham-sân-si trói buộc. Nói tóm lại, bản thân mình tốt thì gọi là đức, còn làm lợi ích cho người khác thì gọi là phước. Có phước mà không có đức thì người này dễ dàng làm tổn hại cho nhiều người khi có quyền hành trong tay. Lịch sử nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó, như vua Tần Thủy Hoàng và nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu khác trên thế gian này.

Ở đây, đức Phật dạy cách thức làm phước và tu đức, nên gọi đầy đủ là Kinh Nhân Quả Phước Đức. Có phước thì được hưởng mọi nhu cầu vật chất đầy đủ, nhờ vậy mà ta khỏi lo cơm áo gạo tiền, khỏi phải bận bịu lo lắng về kế sinh nhai, do đó ta rất dễ dàng, thuận lợi trong việc tu hành để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Người có đức thì không bị danh vọng, tiền tài, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ chi phối, nên ta có thể làm lợi ích cho nhiều người mà không bị các thứ được mất, khen chê, tốt xấu, khổ vui sai sử và làm ô nhiễm. Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Cuộc sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết khiêm cung, lễ phép với người trên, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ kẻ dưới, luôn hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành.

Người đủ ăn đủ mặc,

Là người có phước đức,

Do đó nên ít lo,

Nhờ vậy mà dễ tu.

Là người Phật tử chân chính, chúng ta hãy nên biết phát huy hai mặt phước và đức song hành với nhau, giúp người vì tấm lòng tôn kính quý trọng, không phân biệt kẻ sang người hèn. Người có tấm lòng rộng mở mới có thể làm việc bố thí, cúng dường một cách vô điều kiện, có nghĩa là bình đẳng trong việc giúp đỡ, san sẻ, như trường hợp của ông Cấp Cô Độc. Nhờ vậy, tuy giàu có bậc nhất trong thiên hạ nhưng ông vẫn khiêm cung; trên thì cung kính, tôn trọng người tu hành chân chính, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ; dưới thì bình đẳng bố thí, yêu thương, giúp đỡ tất cả mọi người. Ông là bậc mô phạm xứng đáng để hàng hậu học chúng ta bắt chước làm theo. Chính từ tấm lòng rộng mở để nâng đỡ tha nhân mà tâm ích kỷ của ta được chuyển hóa, tâm tham lam được giải trừ, tâm bỏn sẻn được thay đổi, tâm từ bi được tăng trưởng, tâm bao dung và độ lượng được phát triển, tâm buông xả được sáng ngời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

LÀM NGƯỜI PHẢI HIỂU BIẾT

 Bây giờ chúng ta từng tự thứ lớp đi vào nội dung chính của Kinh Nhân Quả Phước Đức mà giải thích từng phần. Phật dạy:

Phương pháp thứ nhất:

Luôn gần gũi người hiền,

Lánh xa kẻ xấu ác,

Tôn kính bậc đáng kính,

Đó là phước đức lớn nhất.

Người Phật tử chân chính trước tiên phải biết thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính và hay lánh xa kẻ xấu ác, vì sao? Vì “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Thường thì người hiền sống có nhân cách và đạo đức nhờ biết tu tâm dưỡng tánh, do đó chúng ta có dịp gần gũi người hiền để được học hỏi các điều hay, lẽ phải, nhờ vậy cuộc sống của ta càng ngày càng thăng hoa, hướng về điều thiện nhiều hơn, do đó ít vấp phải lỗi lầm đáng tiếc. Bậc hiền tài hay một vị thầy tâm linh luôn sống có ý thức, biết giữ gìn nhân cách, sống điều độ, hài hòa, không buông lung, phóng túng, trước khi làm việc gì biết xét nét kỹ càng và lường được hậu quả của nó. Do đó, chúng ta có phước báo lớn lao mới có dịp gần gũi, thân cận các bậc hiền Thánh. Các Ngài đã có khả năng chuyển hóa những lỗi lầm và ta có thể học hỏi để biết cách thay đổi cuộc đời và sẽ là gương tốt cho hàng hậu học noi theo. Do có định tĩnh và sáng suốt nên lòng từ bi rộng mở, các Ngài nhiệt tâm, bền chí trong việc dạy dỗ, hướng dẫn cho chúng ta tu học, tất cả đều phát xuất từ tấm lòng yêu thương chân thật, có khả năng giúp cho chúng ta làm người tốt mà biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Bởi vậy, bậc hiền Thánh do kinh nghiệm một đời tu tập, đã từng học hỏi người xưa qua sách vở và đã áp dụng vào trong thực tiễn cuộc sống, nên gần gũi các Ngài ta sẽ học được những lời dạy quý báu, chân thành và bổ ích; nhờ đó chúng ta ít vấp phải lỗi lầm mà không rơi vào hố sâu của đam mê, tội lỗi. Thế gian này là một trường đời hỗn hợp, phức tạp vô cùng, vì sự phát triển xã hội là từ lòng tham của con người, do đó cái ác luôn chiếm ưu thế, làm cho con người điên đảo, vọng động, mà làm những điều xấu xa, tội lỗi, gây khổ đau cho nhân loại. Vì thế, người con Phật cần phải biết khôn ngoan, khéo léo, tránh xa những kẻ xấu ác, mà hay gần gũi các bậc hiền tài, nếu không ta sẽ có ngày mang họa vào thân. Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, mới bảy tám tuổi đã bị tiêm nhiễm bởi các thói hư, tật xấu do sống chung và ảnh hưởng môi trường xung quanh không tốt. Tôi đã rơi vào hố sâu của tội lỗi, nên hơn nửa đời người đã làm các việc xấu ác. Tôi may mắn có được người mẹ nhân từ, đức độ, nên đã giúp tôi làm mới lại cuộc đời nhờ tình thương bao la của bà. Nếu ta muốn làm người tốt thì trước tiên phải biết gần gũi các bậc hiền Thánh, cố gắng học hỏi và rèn luyện nhân cách sống ngay từ thuở ấu thơ. Một gia đình có nề nếp gia phong tốt luôn biết cách dạy dỗ để giúp con em mình sống có chừng mực và hiểu biết.

Chúng ta thử nghĩ về một số người chơi ma túy đang bị cơn nghiện sai khiến, sắp sửa đi cướp giựt để có tiền mua ma túy. Thái độ đó rất xấu, nó làm cho con người ta vừa vật vã, vừa thèm khát khoái lạc, nên đành phải hung dữ, bạo động trong mù quáng. Nếu như ta đang ở trong nhóm người như vậy thì ta đang hấp thụ những chất độc hại, đang tàn phá cơ thể của ta, đang làm cho người thân ta đau khổ và gây thiệt hại cho nhiều người khác. Do đó, ta phải biết khôn khéo lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận bậc hiền Thánh và phải biết tôn kính những bậc đáng kính. Nếu không thì cả thân và tâm của ta sẽ bị lây lan bởi thói hư tật xấu. Ta muốn có sức khỏe thì phải biết đưa vào cơ thể các thực phẩm tốt cho thân và thực phẩm an toàn cho tâm. Ta phải tìm một môi trường lành, môi trường có nhiều người tốt, trong đó mọi người đều có hướng thăng hoa đạo đức, có lý tưởng tốt để phục vụ nhân loại. Ở trong môi trường tốt, thực phẩm mà ta tiêu thụ sẽ trở nên hiền lành. Được sống với nhiều người tốt mà cùng nhau tu học trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, quét tước, dọn dẹp, lau chùi, mình đều được bảo bọc bởi năng lượng hiền lành ấy, ta sẽ được thân tâm an ổn, nhẹ nhàng.

Vậy thế nào là kẻ xấu ác? Đó là kẻ thích sát sinh, hại vật, lường gạt, trộm cướp, sống hưởng thụ, vui chơi quá đáng, lười biếng, ỷ lại vào sự nghiệp của gia đình, bất hiếu với cha mẹ và hay say sưa, nghiện ngập. Tóm lại, sống chung với người xấu ác nếu không phải là bậc hiền Thánh thì trước sau gì cũng nhiễm thói quen xấu của họ, dù chúng ta có cố gắng cách mấy đi nữa cũng khó bề vượt qua. Như khi xưa còn nhỏ ta thường tắm sông chung với nhau. Nếu lên bờ trước thì những bạn khác sẽ vấy sình bùn vào người để ta cùng dính bẩn. Cho nên, khi các em còn đang học nơi mái ấm nhà trường thì hãy khôn khéo, ngoan ngoãn, sáng suốt chọn bạn tốt mà chơi. Bạn nào siêng năng, chăm chỉ học hành, lại hay khuyến khích, giúp đỡ người khác, sống biết hiếu nghĩa với cha mẹ, thì ta hãy nên kết làm bạn thân với người đó. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” quả thật không sai chút nào. Ngoài việc lánh xa kẻ xấu ác, chúng ta hãy thường xuyên thân cận bậc hiền Thánh để được học hỏi những lời dạy quý báu. Ta luôn biết ơn và tôn kính người có công dạy dỗ chúng ta nên người, nhờ vậy chúng ta ý thức được lời dạy của các Ngài mà cố gắng hành trì, tu tập để xứng đáng là người Phật tử chân chính.

SỐNG LÀ ĐỂ PHỤC VỤ

Phương pháp thứ hai là:

Biết chọn môi trường tốt,

Để làm các việc lành,

Cùng hướng về đường thiện,

Là phước đức lớn nhất.

Ngoài việc thân cận bậc hiền Thánh để học hỏi những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, ta còn phải biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành, nhằm giúp ích cho mọi người và tự hoàn thiện chính mình. Trong thời đại văn minh, sự tiến bộ tiện nghi về vật chất đã giúp con người tiết kiệm được thời gian rất nhiều; nhưng ngược lại hoàn cảnh môi trường sống thường đem đến cho chúng ta những điều không được hài lòng, như ý. Do đó, ta phải biết chọn lựa môi trường tốt để tu chí, học hỏi mà làm các việc thiện lành, tốt đẹp. Nhờ vậy, ta đang tiến dần trên con đường giác ngộ, giải thoát để vượt qua biển khổ, sông mê mà vươn lên làm đẹp cuộc đời.

Thuở xưa, nhà thầy Mạnh Tử khi còn nhỏ sống gần nghĩa địa; thấy người đào huyệt chôn rồi khóc lóc người thân, thầy về nhà cũng bắt chước đào hố chôn rồi lăn khóc. Bà mẹ thấy vậy không hài lòng vì sợ con hư, nên tìm cách bán nhà và dọn ra chỗ gần chợ để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần chợ thấy người mua bán cân đo đong đếm gian dối, thầy về nhà cũng bắt chước làm theo. Bà mẹ thấy vậy cảm thấy buồn trong lòng nên nói “chỗ này không phải để con ta ở”; thế là bà tiếp tục bán nhà và dọn đến gần trường học để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau siêng năng học hỏi, lễ phép cung kính thưa hỏi thầy cô giáo, về nhà thầy cũng bắt chước đi thưa về trình lễ phép và siêng năng tinh cần học tập. Lúc này, bà mẹ Mạnh Tử mới thật sự vui lòng nói, “chỗ này mới thật đúng là chỗ của con ta ở”. Rồi một hôm, thầy Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi trông thấy liền cầm dao cắt đứt tấm vải trên khung mà nói rằng, “con đang đi học mà bỏ học thì giống như mẹ cắt đứt tấm vải này mà bỏ đi”. Nghe lời mẹ dạy như thế, thầy Mạnh Tử liền ăn năn hối hận, thầy xin lỗi mẹ và từ đó về sau luôn siêng năng, chăm chỉ học hành, không dám lơ là, chễnh mảng một ngày nào. Nhờ vậy, sau này thầy trở thành bậc hiền tài có tiếng tăm mà dấn thân đóng góp cho gia đình, phục vụ tốt cho xã hội. Cha mẹ là thầy giáo đầu tiên của con trẻ, một gia đình có nề nếp gia phong tốt thì cha mẹ phải biết cách chăm sóc và dạy dỗ con cái đúng mức. Mẹ thầy Mạnh Tử ba lần dọn nhà, thay đổi chỗ ở, biết chọn môi trường tốt để giúp con mình ý thức và hiểu biết về giá trị sự sống, mà cố gắng siêng năng học hỏi, nhờ đó khi lớn lên thành bậc mô phạm đạo đức trong xã hội. Do đó, bậc làm cha mẹ phải biết dạy con khi tuổi còn nhỏ. Nếu thấy chúng tự tay giết hại một con vật vô cớ thì ta phải chỉ dạy liền, giết hại là một việc làm xấu vì ai cũng ham sống sợ chết, tại sao ta nỡ nhẫn tâm giết hại chúng. Thấy con mình lấy đồ của ai mà không trả lại là bậc cha mẹ phải chỉ dạy con mình tường tận, nhân trộm cắp sẽ dẫn đến quả báo nghèo cùng, khốn khổ trong hiện tại và mai sau.

Có một con sư tử mẹ rất thương con nên mỗi lần đi săn đều ngặm cổ con mình cùng theo. Trong lúc rượt con mồi, sư tử mẹ nhảy qua tảng đá, vì muốn há miệng để chụp con mồi mà nó vô tình làm sư tử con rớt xuống vực thẳm. Nhìn xuống vực sâu mà không thấy con mình đâu, nó buồn bả tiếc nuối thương con trong nỗi khổ, niềm đau. Không biết trời xuôi đất khiến như thế nào mà con sư tử con vẫn còn sống, nó chỉ bị thương nhẹ và được đàn cừu chăm sóc. Cừu mẹ coi nó như con của mình nên nuôi nó tử tế, nhờ vậy nó sống được trong sự đùm bọc, giúp đỡ của anh em nhà cừu. Nó lớn nhanh theo thời gian nhờ môi trường mới và hòa đồng vào nhịp sống của đàn cừu và trở nên hiền từ như các con cừu non, mặc dù bản chất nó là con sư tử. Vài năm sau, sư tử mẹ có dịp đi ngang qua vùng thảo nguyên của đàn cừu. Từ xa, sư tử mẹ đã thấy sư tử con nằm giữa bầy cừu. Sư tử mẹ rất đỗi ngạc nhiên tại sao có con sư tử hiền hậu ở trong bầy cừu? Bởi bản chất của sư tử là ăn mồi sống và nó sẽ tấn công bất cứ con vật nào để nuôi sống bản thân. Trong dòng suy nghĩ mong lung, nó nhớ lại đứa con cách nay vài năm đã bị rơi xuống vực sâu, “không lẽ con ta còn sống sót đó sao?” Nghĩ vậy, nó mon men đến gần mà không hề cố ý vồ một con cừu nào hết. Khi thấy sư tử xuất hiện, cả bầy cừu đều hoảng loạn bỏ chạy. Sư tử mẹ chỉ cố tình đuổi theo sư tử con và cuối cùng đã gặm được cổ nó và chạy đến bên bờ suối, rồi thả xuống để nó uống nước.

Câu chuyện ngụ ngôn trên được dừng lại nơi đây để chúng ta cùng tham khảo và suy gẫm. Môi trường tốt hay xấu rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Nếu ta có đầy đủ phúc duyên được sống gần các bậc hiền đức để học hỏi và rèn luyện bản thân, nhờ vậy ta có thể phát triển theo chiều hướng tích cực để có thể giúp đỡ gia đình và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Đời sống của loài cừu chỉ an phận với đồng cỏ non trước mắt, nên cuộc sống của chúng còn rất nhiều giới hạn. Muốn khai thác tiềm năng vô hạn của con người để được sống yêu thương hơn, ta phải quyết tâm biết chọn môi trường tốt để có cơ hội dấn thân phục vụ, cùng hướng về việc làm có ích cho nhân loại.

CÁCH THỨC LÀM NGƯỜI TỐT

Phương pháp thứ ba là:

Siêng học lại giỏi nghề

Biết giữ gìn đạo đức

Biết nói lời ái ngữ

Là phước đức lớn nhất.

Siêng năng, chăm chỉ học hành, biết nghe lời thầy cô giáo là trách nhiệm của chúng ta khi còn ngồi trong ghế nhà trường. Trong thời gian đang học, quan hệ bạn bè rất cần thiết. Nếu ta có bạn luôn siêng năng, chăm chỉ thì ta cùng nhau chăm chỉ học hành, cùng động viên, khuyên nhủ nhau mà cố gắng học tốt. Khi lớn lên, chúng ta biết chọn nghề nghiệp chân chánh và phải siêng năng tận tụy với nghề nghiệp đó. Người con Phật phải biết tránh những nghề nghiệp làm tổn hại đến tất cả chúng sinh; như nghề mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em, mua bán vũ khí, mua bán thuốc độc, mua bán rượu, xì ke, ma túy, và nghề trực tiếp giết hại các loài súc vật. Muốn được như vậy thì ta phải đồng hướng về Tam bảo quy y Phật-Pháp-Tăng, và phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức.

Ngoài ra còn phải siêng năng học hỏi, tu bổ tay nghề, hay học đi đôi với hành. Vậy học là gì? Hành là sao? Học là tiếp thu những kiến thức hiểu biết cơ bản của nhân loại qua mấy ngàn năm lịch sử con người. Chúng ta có thể học qua trường lớp, qua sách vở, học ở bạn bè, học ở gia đình và học ở thực tế cuộc sống. Mục đích việc học là nâng cao sự hiểu biết của con người và vạn vật trên thế gian này, để biết được thật giả, tốt xấu, đúng sai, phải quấy, mà chúng ta có thể áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Muốn hiểu biết được bản chất của cuộc đời, ta phải siêng năng học hỏi, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi, để sau khi khôn lớn trưởng thành ta biết vận dụng việc học của mình mà làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, dấn thân phục vụ tốt cho xã hội. Sau khi đã hiểu biết về kiến thức, ta bắt đầu giai đoạn tiếp theo là chọn ngành nghề để làm việc. Có nhiều nghề đem lại lợi ích cho tha nhân mà không làm tổn hại cho ai, như nghề thầy giáo, nghề chữa bệnh, nghề gieo trồng sản xuất và giáo dục tâm linh để hoàn thiện nhân cách đạo đức, giúp mọi người tự tin chính mình và tin sâu nhân quả. Người Phật tử chân chính sẽ biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghề thánh thiện. Vậy mà ngày nay, có nhiều người cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, đã tốt nghiệp đại học nhưng sau đó chẳng đem cái được học làm sự nghiệp sinh sống; rốt cuộc hoang phí tiền bạc của cha mẹ hơn 20 năm nuôi dưỡng. Mục đích của việc học là để nâng cao trinh độ hiểu biết mà ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Việc ỷ lại, nhờ vã vào người khác là căn bệnh lười biếng của một số người sống thiếu ý thức và trách nhiệm của mình. Những kẻ như thế khó bao giờ thành đạt trong xã hội, thử hỏi làm sao có đủ khả năng nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và phục vụ nhân loại?

Để việc giao tiếp với đối tác trong quan hệ cuộc sống được vuông tròn, tốt đẹp, ta cần phải nói lời hòa nhã, dịu dàng, dễ nghe, nhờ biết quy hướng Tam bảo và gìn giữ 5 điều đạo đức. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, ta không trực tiếp giết hại hay xúi bảo người khác giết hại. Ta không tự ý lấy đồ của người khác khi không được cho phép, hoặc hiên ngang cướp giật công khai. Ta sống chung thủy một vợ một chồng, không ngoại tình, lang chạ với người khác. Ta không nói lời hằn học nặng nề, hay mắng chửi người khác; cho đến việc ta không đưa các độc tố vào cơ thể như rượu, xì ke, ma túy, vì nó làm ta điên cuồng, mê muội. Ta siêng năng, tinh cần học hỏi, và biết phát huy nghề nghiệp đúng mức; nhờ vậy ta sống có nhân cách đạo đức, nên thân tâm được thanh tịnh, trong sáng mà an ổn, nhẹ nhàng.

SỐNG THƯƠNG YÊU BẰNG TRÁI TIM HIỂU BIẾT

Phương pháp thứ tư là:

Biết hiếu dưỡng cha mẹ,

Thương yêu gia đình mình.

Lại làm nghề thích hợp,

Là phước đức lớn nhất.

Hiếu dưỡng với cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của một con người. Ta có thân này là nhờ công ơn của cha mẹ. Mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng vất vã để nuôi ta khôn lớn. Gia đình là chỗ nương tựa chính đáng giúp ta trưởng thành và nên người, nhờ cha mẹ biết cách nuôi dạy khôn khéo, tập cho con mình biết sống tự lập, có một nhận thức đúng đắn và sống không ỷ lại vào gia đình. Riêng về bổn phận làm con, chúng ta biết nghe theo lời của cha mẹ, cung kính, hiếu thảo và biết ơn.

Chọn nghề nghiệp để làm việc là một điều rất quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Trong xã hội, tùy theo địa vị mà có chức năng và nghề nghiệp khác nhau, nên người con Phật cần phải biết khôn ngoan, sáng suốt lựa chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính. Nghề nghiệp chân chính không làm tổn hại một ai, giúp ta sống an vui, hạnh phúc vì có cơ hội phục vụ tốt cho nhiều người. Ngành nghề trong xã hội rất đa dạng và phong phú, có những nghề càng làm càng có phước, có những nghề càng làm càng có tội. Nghề có phước như xây dựng trường học, cầu cống, đường xá, y tế, bác sĩ, bảo vệ môi trường, trồng trọt v.v… Nghề có tội như trực tiếp sát sinh, hại vật, mua bán vũ khí, mua bán trẻ em phụ nữ, mua bán rượu và các chất xì ke, ma túy là những nghề càng làm càng gây tạo thêm tội lỗi. Quả báo trong hiện tại bị bệnh hoạn, chết yểu, bị tù tội và si mê, cuồng loạn. Sau khi chết lại bị đọa 3 đường dữ để chịu khổ báo, hành hạ trong địa ngục và làm quỷ đói, súc sinh để trả nợ tiền kiếp oan gia.

Trong bầu vũ trụ bao la này, từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều sống nương nhờ lẫn nhau theo nguyên lý nhân duyên quả mà bảo tồn mạng sống. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Một con người muốn hoàn thiện chính mình thì trước tiên phải biết hiếu kính với cha mẹ, bởi đó là người có công sinh thành dưỡng dục, nuôi ta khôn lớn, mà ta còn không biết ơn thì thử hỏi làm sao có thể tốt với mọi người. Ngoài việc hiếu thảo đối với mẹ cha, ta còn phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu gia đình người thân như là thương yêu chính mình. Muốn được như vậy, ta phải biết chọn nghề nghiệp chánh đáng để sinh sống mà ít làm tổn hại cho ai. Ta sống được trọn vẹn như thế nên lúc nào cũng bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

BỐ THÍ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÀU CÓ

Phương pháp thứ năm là:

Sống vui vẻ bố thí,

Giúp gia đình người thân.

Bình đẳng tùy theo duyên,

Là phước đức lớn nhất.             

Đạo Phật đi vào đời vì lợi ích chúng sinh để chuyển hóa hiểm nghèo. Phật dạy pháp bố thí là điều căn bản trong cuộc sống. Bố thí là con đường mở rộng cửa từ bi để mọi người biết sống thương yêu bằng trái tim hiểu biết và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Một người làm ăn lương thiện, có nhân cách đạo đức biết gầy dựng cơ nghiệp của mình từ hai bàn tay và khối óc. Đó là phước đức lớn nhất; càng phước đức hơn khi cuộc sống của ta được đầy đủ về mọi mặt, ta không phải lo toan cơm áo gạo tiền, không phải bận bịu về kế sinh nhai, nên dễ dàng dấn thân đi vào đời để phục vụ lợi ích cho nhân loại. Nhờ vậy ta có cơ hội sống tốt hơn để phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ người thân và nâng đỡ, sẻ chia với mọi người xung quanh, nhất là những người đang gặp bất hạnh, thiếu thốn, khó khăn. Sống trung thực, thật thà, ngay thẳng, biết xét nét từng cử chỉ, hành động của mình mà ta lúc nào cũng an vui, thanh thản, chẳng có điều gì phải dằn vặt làm ta bận lòng. Ta sống được bình an mà hay giúp người cứu vật là đã thành tựu phước đức.

Khi ta đã có đời sống ổn định mà lại có nghề nghiệp chân chính, thì phải chia tiền bạc ra làm 5 phần, 2 phần duy trì công việc góp vốn kinh doanh, 1 phần lo thủ hậu bệnh hoạn mai sau, 1 phần giúp gia đình, người thân khi gặp hoàn cảnh khó khăn, 1 phần cúng dường người tu hành chân chính hoặc giúp đỡ ai đó trong cơn hoạn nạn, khốn khó. Bố thí hay nâng đỡ tha nhân là việc làm cao thượng mà mỗi người con Phật cần phải có trách nhiệm và bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì tình người, tình nhân loại trong cuộc sống. Người con Phật trước tiên phải giúp đỡ cho gia đình, người thân trước; kế đến mới giúp người ngoài xã hội và cúng dường Tam bảo; nhưng người có tiền bạc thì dễ dàng làm được điều đó, còn kẻ nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn thì làm sao đây? Vấn đề được đặt ra ở đây chính là tấm lòng, nếu ta có tấm lòng thì có tất cả, tùy hỷ tán thán với việc làm tốt đẹp của người khác cũng là một nghệ thuật sống làm cho ta chuyển hóa được thói quen ganh ghét, tật đố. Ta vui với việc làm tốt của người khác, nhờ đó ta sống trong bình an, hạnh phúc.

Có nhiều gia tộc sống rất hay. Khi có người thành công trong việc làm ăn sinh sống thì bắt đầu tìm cách tạo điều kiện giúp đỡ cho người thân cũng được thành công như mình. Kinh Phật có một câu chuyện rất thực tế. Có người hỏi, hai người đồng nhau về mọi phương diện tài năng, giới hạnh, nhưng một người biết bố thí giúp đỡ, một người thì không; sau khi chết đi, nếu hai người ấy sinh lại làm người thì có sự khác biệt như thế nào? Phật nói, “người có bố thí, giúp đỡ sẽ vượt qua người kia trên 5 phương diện: sống thọ và khỏe mạnh hơn; nhan sắc xinh đẹp, dễ nhìn; cuộc sống an vui, hạnh phúc; có địa vị, danh phận rõ ràng và có cuộc sống ngày càng thăng hoa hơn”. Do vậy, bố thí cúng dường giúp ta vui vẻ sống lạc quan và dễ dàng buông xả các thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật. Nhờ có bố thí và buông xả, ta được phước báu đầy đủ, dư dã về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần, cuộc sống luôn no cơm ấm áo; nhờ vậy ta khỏi phải lo toan, bận bịu mà sống có tình thương yêu chân thật, tình người trong cuộc sống; do đó, ta biết khoan dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, biết chia vui sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Hai người cư sĩ cùng giữ 5 giới đầy đủ, siêng tu trí tuệ, biết buông xả các tâm tư hại người hại vật; nhưng một người có bố thí, biết giúp đỡ bằng cả tấm lòng thành kính của mình, thì dĩ nhiên sẽ tăng thêm nhân quả thiện lành, tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Do đó, quả báo sẽ thù thắng hơn trong 5 điều: sống thọ, sắc đẹp, an lạc, địa vị và cuộc sống ngày một thăng hoa hơn. Giúp người hay nâng đỡ một ai là nghĩa cử cao đẹp của người con Phật, sống cho đi mà không cần đền đáp lại vì đó là trách nhiệm chung và bổn phận của mọi người trong xã hội. Ta cho những gì mình cần, mình thích, mình trân quý, mới là cách cho khó làm nhất trong cuộc đời. Để đạt được đỉnh cao của tấm lòng vô ngã, vị tha, ta phải thấu rõ bản chất của cuộc đời là hư dối, tạm bợ, vô thường và không có thực thể cố định là ta, là của ta. Cho mà không thấy mình cho, vật cho, và đối tượng để cho; có nghĩa là khi gặp người tu hành chân chánh thì ta cúng dường, khi gặp người khó khăn thì ta giúp đỡ mà không tính toán, so đo, tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà ta có thể đóng góp lợi ích thiết thực vào trong cuộc sống hằng ngày. Bố thí hay giúp đỡ, sẻ chia là con đường mau dẫn đến giàu có, an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại; là pháp tu căn bản của người con Phật. Do vậy, ai hiện đời sống khá giả, nhiều tài sản là người đã biết gieo trồng phước đức từ nhân biết bố thí, san sẻ, giúp đỡ người khác. Ai hiện tại nghèo hèn, khốn khó, ít tài sản, dù làm việc vất vả, nhọc nhằn quanh năm mà vẫn thiếu trước, hụt sau, thì ta biết mình ít gieo trồng phước, nên cần cố gắng nhiều hơn nữa trong việc bố thí, cúng dường.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp khác biệt trong thực tế làm ta nghi ngờ về lý nhân quả. Có người sống hay lường gạt, trộm cướp, lấy của người, mà họ vẫn sống phây phây, giàu có, dư dã, có nhiều thế lực và tài sản lớn. Nhân quả thật sự rất đa dạng và phức tạp, bởi phải trải qua 3 thời hiện tại, quá khứ, vị lai; hay còn gọi là hiện báo, sinh báo và hậu báo. Hiện báo là khi ta gieo nhân thì có kết quả liền trong hiện tại; như ta đang đói bụng ăn cơm vào được no. Chính vì vậy mà ta gọi là gieo nhân thì gặt quả. Sinh báo là khi ta gieo nhân thì phải chờ đến một thời gian nào đó mới có kết quả. Hậu báo thì phải trải qua nhiều đời, nhiều kiếp mới cho ra kết quả. Khi đã gieo nhân dù trăm kiếp nghìn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên thì sẽ cho ra kết quả, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Như chúng ta đồng thời gieo trồng hạt giống của ba loại, cây lúa, cây chuối và cây xoài cùng một thời gian. Kết quả là ta thu hoạch được 3 loại này vào thời gian chênh lệch khác nhau. Hạt giống của cây lúa khi gieo xuống thì từ 3 tháng cho đến 6 tháng thì sẽ thu hoạch được. Hạt giống của cây chuối khi trồng xuống phải từ 6 tháng cho đến 1 năm mới thu được kết quả. Riêng hạt giống của cây xoài thì nhanh lắm cũng phải từ 2 năm trở lên mới có thể thu hoạch. Qua hình ảnh thí dụ này, chúng ta thấy đường đi của nhân quả còn chịu ảnh hưởng của nhiều duyên khác. Có khi ta gây nhân mà không gặt được kết quả bởi do duyên không hội tụ đầy đủ.

Về mặt nhân quả, kẻ làm ác mà vẫn hưởng điều tốt lành trong hiện tại, như giàu sang và có chức quyền, vì đây là dư báo làm thiện của họ ngày xưa còn quá nhiều, nên ta thấy nhân quả dường như chẳng công bằng. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp và dối gạt nhiều người khác, nhưng ta không thể nào qua mặt được luật nhân quả nghiệp báo, đến khi phước hết thì chịu họa khổ đau vô cùng tận. Những người hiện tại chuyên bố thí cúng dường hay giúp đỡ mọi người, nhưng vẫn thường xuyên gặp trắc trở, hoạn nạn là vì sao? Có một bà già chuyên làm việc từ thiện đã gần 30 năm, ai cũng biết bà như một vị Bồ tát Quan Âm luôn có mặt khắp mọi nơi. Vậy mà lúc nào bà cũng gặp điều bất hạnh. Chuyến từ thiện hôm ấy mọi người trên xe đều chết, riêng bà chỉ bị gãy xương tay mà thôi. Sự việc xảy ra như thế làm bà mất niềm tin về nhân quả, bà gần như muốn thoái Bồ đề tâm. Một hôm, bà vô tình gặp một vị thầy, nên liền kể hết nguyên nhân và kết quả việc làm của bà từ bấy lâu nay. Vị thầy ồ lên một tiếng và tán thán việc làm của bà mà không quên kèm theo một lời an ủi thắm đậm tình người, “bà không thấy đó sao, bao nhiêu người đều chết hết trong chuyến xe oan nghiệt đó, còn bà chỉ bị gãy tay mà thôi và nay đã lành lặn. Đó là phước của bà đã làm từ thiện trong nhiều năm qua, nhờ vậy bà thoát chết trong đường tơ kẻ tóc mà vẫn sống để tiếp tục làm công việc chia vui, sớt khổ, giúp đỡ mọi người nhiều hơn nữa”. Khi được vị thầy trình bày cặn kẽ về sự phức tạp và đa dạng của nhân quả phải trải qua 3 thời hiện tại-quá khứ-vị lai, bà hoan hỷ, vui vẻ chưa từng có từ trước đến nay, nên phát tín tâm không còn nghi ngờ về nhân quả nữa. Từ đó, bà vững lòng tin hơn nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn sống vì mọi người. Giờ thì bà tuy đã lớn tuổi nhưng hầu như chuyến từ thiện nào bà cũng đều có mặt, bà luôn vui tươi chia sẻ để làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh của nhiều người.

Bố thí giúp đỡ với tâm chân thành, vui vẻ, đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ sẽ giúp cho người qua cơn hoạn nạn, nên giá trị đóng góp rất thiết thực, như người khát cần nước, người rét cần lửa, người đói cần ăn. Ta bố thí, cúng dường với tâm cung kính, tôn trọng, thì cả hai người cho và nhận đều được an lạc, hạnh phúc thật sự ngay tại đây và bây giờ.

LÀM NGƯỜI CÓ NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC

Phương pháp thứ sáu là:             

Tránh không làm điều ác,

Không say sưa nghiện ngập,

Siêng năng làm việc lành,

Là phước đức lớn nhất.

Vậy thế nào là việc ác? Cái gì có tính cách hại người, hại vật thì đó là việc ác, như giết hại, trộm cướp, lường gạt, quan hệ bất chính với vợ chồng người khác, nói dối gạt người, nói lời dụ dỗ hại người, nói lời cộc cằn thô lỗ, nói lời gây mất đoàn kết làm hai bên hiểu lầm nhau và uống rượu say sưa, nghiện nghập, hoặc dùng các chất kích thích như xì ke, ma túy. Nói chung, cái gì làm tổn hại cho nhau trong hiện tại và mai sau thì đó là việc ác. Đứng trước dòng thác lũ của cuộc đời với muôn vàn sự sai khác, tốt xấu, nên hư, thành bại, đều do mình tạo lấy, mình làm lành hưởng nhiều phước báo cõi Trời Người, mình làm ác chịu quả khổ đau trong 3 đường dữ: địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Ai khôn ngoan, sáng suốt, biết học hỏi và thường xuyên quán chiếu, tu tập, thì sẽ quyết tâm tránh xa không làm các việc xấu ác. Trong cuộc sống giao tiếp, lễ nghĩa là điều không thể thiếu trong quan hệ tình người với nhau, nên “miếng trầu, men rượu là đầu câu chuyện” để nối kết giao dịch trong làm ăn, sinh sống với nhau. Để giữ mình không say sưa, nghiện ngập mà sống giữa dòng đời nghiệt ngã không phải là chuyện dễ làm. Rượu chè, cờ bạc, đàn điếm, hút xách là những thứ có sức quyến rũ hấp dẫn chúng ta lạ thường. Chỉ có người thấm nhuần đạo lý, tin sâu nhân quả mới có thể vượt qua những thứ này mà biết cách làm chủ bản thân.

Phước đức hình thành và tăng trưởng nhanh nhất khi chúng ta biết siêng năng làm các việc thiện lành, tốt đẹp. Khi ta phát nguyện làm các việc có ích cho nhân loại, thì ta sẽ không bao giờ làm các việc xấu ác. Làm việc thiện lành, tốt đẹp luôn giúp cho ta an vui trong chánh pháp, sẵn sàng dấn thân phục vụ vì lợi ích tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán. Khi ta tạo phước đức cho bản thân bằng cách làm các việc bố thí cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người bất hạnh, thì ta tuyệt nhiên không bị sự chi phối của say sưa và nghiện ngập bê tha. Trong quan hệ giao dịch làm ăn, thói quen của người đời thường lấy ăn uống làm phương tiện đối tác, nhất là rượu bia. Việc làm ăn càng thành đạt thì việc say sưa trong rượu chè là điều khó tránh khỏi; nhưng đã là Phật tử chân chính, ta quyết tâm khắc phục thói quen say sưa, nghiện ngập để được sống tốt hơn mà làm tròn trách nhiệm, bổn phận cho gia đình, và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Một con người thường xuyên say sưa, nghiện ngập thì không bao giờ có tín tâm để làm các việc thiện lành, tốt đẹp.

Khi người ta giàu lên thì dễ sinh tật say sưa, đam mê các dục vọng thấp hèn. Ta thường hay đổ thừa, quy kết cho người nghèo là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội. Thế nhưng, khi con người phát triển, văn minh tiện nghi vật chất càng cao thì có khi lại gia tăng thêm tệ nạn xã hội, như tình trạng của đất nước ta hiện nay. Trẻ em phạm pháp ngày càng nhiều, có những vụ án hết sức nghiêm trọng và dã man quá mức. Nạn suy đồi nhân cách con người do mất phẩm chất đạo đức, trình độ hiểu biết và nhận thức của chúng ta không theo kịp đà tiến bộ xã hội, nên ta đã tự đánh mất mình trong si mê, lầm lạc mà làm khổ đau cho nhân loại. Khi có tiền trong tay, nhất là con cái của nhà giàu có, vì đua đòi ăn chơi trác táng theo bè bạn để chứng tỏ đẳng cấp con nhà quý tộc mà hưởng thụ trụy lạc, vui chơi trong các vũ trường, quán nhậu, quán ba, dẫn đến sa đọa bắt đầu kể từ đó. Tiền của cha mẹ chúng làm ra dễ dàng vì những phi vụ bất chánh nên sinh ra đủ thứ tật xấu, ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, hút chích, gái gú … Như vậy, giàu có mà không nhân cách đạo đức thì thật là nguy hiểm vô cùng, nên hậu quả là nhiều gia đình tan vỡ, đổ nát, mất hạnh phúc chỉ vì lòng si mê tham muốn hưởng thụ quá đáng.

Ý thức được sự sống trên thế gian này là phải nương nhờ lẫn nhau, ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không dệt vải nhưng vẫn có áo mặc, cho đến các nhu cầu cần thiết trong đời sống của ta hằng ngày cũng phải như thế. Nhiều người không quan tâm, chú ý đến khía cạnh này, nên đôi khi ta quá chủ quan, không cảnh giác, để rồi đánh mất mình khi lỡ sa đà vào say sưa, nghiện ngập. Nói cách khác, say sưa và nghiện ngập là 2 yếu tố quan trọng khiến ta tổn giảm phước đức nhanh chóng vì tinh thần si mê, ám độn. Quả báo hiện đời là tinh thần tán loạn, mê mờ, làm khổ gia đình, người thân và xã hội, dính vào vòng tù tội. Do đó, ta phải thường xuyên gần gũi bạn lành, lánh xa kẻ xấu ác, phát nguyện gieo trồng phước đức, làm việc tốt vì lợi ích nhân loại, nhờ vậy ta lúc nào cũng bình tĩnh, sáng suốt, làm chủ bản thân mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Ai có nhân duyên lớn mới có cơ hội đọc tụng và hành trì theo Kinh Nhân Quả Phước Đức, nhờ vậy chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo thiện lành, tốt đẹp trong hiện tại và mai sau, nên không mắc phải những sai lầm đáng tiếc mà sống bình an, hạnh phúc.

KHIÊM TỐN ĐỂ TRƯỞNG THÀNH         

Phương pháp thứ bảy là:

Biết khiêm cung lễ độ,

Để học hỏi điều hay.

Nhớ ơn và biết đủ,

Là phước đức lớn nhất.

Người xưa nói “tiên học lễ, hậu học văn”, ta phải biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi, biết kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo để học hỏi điều hay lẽ phải. Tâm khiêm tốn, lễ độ giống như biển cả mênh mông thấp mình chờ đợi, khiến trăm sông cao vót đem nước về biển cả bao la. Do đó, khiêm tốn để học hỏi là một nhân cách cao thượng đối với vị thầy của ta, nhờ thấp mình thưa hỏi đạo lý nên ta biết hóa giải phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Ngược lại với tâm khiêm tốn là cống cao ngã mạn. Người đời thường hay chấp trước ở địa vị và bằng cấp, nếu muốn học đạo mà ta nghĩ vị thầy đó còn dốt hơn mình, rồi coi thường, khi dễ, nên bỏ lỡ cơ hội học đạo Thánh hiền. Ai sinh ra chỗ ti tiện, thấp kém, đều từ tâm ngã mạn mà ra. Khi ta khiêm tốn thì tâm cống cao ngã mạn biến mất, không có chỗ để nó dung thân. Ta biết thưa hỏi và lắng nghe lời chỉ dạy của thầy để biết cách tu tập, từng bước vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Tăng Pháp Đạt chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa nhưng đến lễ Tổ mà đầu không sát đất, bèn bị tổ quở, “trong tâm ông ắt chứa vật gì nên mới có tâm không khiêm tốn như thế”. Pháp Đạt thưa, “con tụng kinh Pháp Hoa 3000 bộ”. Tổ mới bảo, “dù ông tụng đến muôn vạn bộ kinh, hiểu ý kinh và thông đạt hết các pháp mà chẳng cho là hơn người ắt cùng ta sánh vai. Nay ông chấp trước tụng kinh nhiều mà không biết lỗi, ông hãy lắng lặng lòng mà nghe ta nói kệ:

           Lễ để cốt chặt cờ ngã mạn,

           Tại sao đầu ông không sát đất?

           Có ngã thì tội liền sanh,

           Quên công thì phước bao la không cùng.

Lễ lạy là mục đích để tỏ lòng tôn kính đối với vị thầy của mình và ta khiêm tốn, thấp mình thưa hỏi để biết được điều hay lẽ phải trong cuộc sống mà dẹp bỏ tâm cống cao, ngã mạn của mình. Pháp Đạt vì còn thấy mình hơn Tổ nên lạy đầu không sát đất, bị Tổ quở “nếu thấy mình còn hơn người, vậy đến đây học đạo làm chi cho mất công vô ích”. Như chúng ta đã biết, người ngồi nhận lễ là tạo nhân duyên tốt cho người học đạo, nhờ vậy dẹp bớt được tâm cống cao, ngã mạn. Người tu mà không biết thấp mình thưa hỏi thì làm sao học được đạo giác ngộ, giải thoát? Tăng Pháp Đạt liền lễ lạy cầu xin sám hối, mong Tổ tha thứ cho. Pháp Đạt nhờ thế mà nhận ra yếu chỉ tu hành, từ đó Ngài phát tâm tụng kinh nhiều hơn nữa.

Ta học đạo của bậc hiền Thánh trước tiên cần có tâm khiêm tốn, tha thiết vì cầu giải thoát sinh tử; muốn được như vậy ta cần phải “muốn ít biết đủ”, không tham cầu quá mức, sống đơn giản, không tích chứa tài vật riêng tư. Điều quan trọng hơn hết là ta phải biết nhớ ơn để đền ơn thầy tổ bằng cách siêng năng tu học và làm lợi ích chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán; nhờ vậy ta người cả hai đều được lợi lạc. Nhớ ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, người học đạo chân chính lúc nào cũng phải khắc cốt ghi tâm, nương theo lời dạy của bậc thiện hữu tri thức mà cố gắng hành trì để đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ, giải thoát. Sống đơn giản, biết tiết chế trong việc ăn uống, điều hòa trong mọi sinh hoạt và làm chủ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động bằng sự định tĩnh sáng suốt. Nhờ vậy, hành giả dễ dàng chuyển hóa những tâm tư mê muội, tham lam, ích kỷ, ganh ghét, hận thù thành trong sáng, hiện thực mà tan hòa vào hư không.

SIÊNG NĂNG TU HỌC NƠI BẬC GIÁC NGỘ      

Phương pháp thứ tám là:

Biết kiên trì phục thiện,

Thân cận bậc hiền Thánh,

Siêng năng cùng tu học,

Là phước đức lớn nhất.

Đi chùa làm công quả, nghe lời Phật dạy, sám hối, tụng kinh, hoặc làm từ thiện để giúp đỡ mọi người và quán chiếu tham thiền v.v… chính là những việc làm cao thượng, có ích cho mình và người, mang lại phước đức cho hiện tại và mai sau. Có nhiều vấn đề mà tiền bạc không thể mua được, danh vọng không đánh đổi được và uy quyền không lung lạc được, và chỉ có học đạo, tham thiền mới có thể chuyển hóa được phiền muộn, khổ đau thành an vui, hạnh phúc thật sự. Ngày xưa ở Ấn Độ, thái tử Sĩ Đạt Ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ để tìm cầu chân lý nhờ vậy chứng đạo quả Vô thượng. Tại Việt Nam chúng ta vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng để tìm ra chân lý; nhờ siêng năng, tinh cần tu hành nên các Ngài dễ dàng buông xả các chấp mắc ở đời, để rồi cuối cùng thành tựu đạo pháp. Khi tâm đã định tĩnh sáng suốt thì chúng ta thấy thế giới đều bình an và chỉ có chuyên tâm học đạo mới có thể thành tựu phước đức viên mãn.

Trong đời có 2 hạng người: người thứ nhất chưa từng vấp phải lỗi lầm, luôn sống tốt và hoàn thiện chính mình về mọi mặt; người thứ hai như đa số chúng ta, vì si mê chấp ngã nhiều đời nên ta sống dễ làm tổn hại cho người và vật. Đối với bậc thiện hữu tri thức, nếu ta có duyên được gần gũi để học đạo giác ngộ giải thoát thì ta phải siêng năng, kiên trì, bền bỉ, dứt khoác buông xả các thói quen xấu ác nhiều đời. Ngoài việc kiên trì học đạo, ta còn phải ra công làm việc, đóng góp, phục vụ đại chúng không biết mệt mỏi; nhờ vậy thói quen xấu dần hồi được tiêu trừ và phước đức tự thân càng thêm tăng trưởng.

Ở Thường chiếu, mỗi thiền sinh phải lao động cùng tu học như cái đỉnh ba chân. Học để hiểu lời Phật dạy, lao động để cảm thông được nỗi nhọc nhằn của đàn na tín thí mà chúng cố gắng tu cho tốt. Thiền sinh nào áp dụng thuần thục đầy đủ 3 điều kiện trên thì trước sau gì cũng sớm mau thành tựu đạo pháp. Thường xuyên gần gũi, thân cận bậc hiền Thánh, siêng năng tu học và kiên trì bền bỉ trong việc gạn lọc thân tâm; nhờ vậy tâm tham lam, ích kỷ được tiêu trừ; tâm ganh ghét, tật đố, nóng giận được chuyển hóa; tâm si mê, chấp trước thành vô lượng trí tuệ, từ bi.

BIẾT NHÌN LẠI CHÍNH MÌNH

Phương pháp thứ chín là:

Sống tinh cần tỉnh thức,

Biết quay lại chính mình,

Để sống đời giải thoát,

Là phước đức lớn nhất.

Trong quá trình hướng nội, thanh lọc thân tâm thì chứng đạt Niết bàn là phước đức lớn nhất. Sự siêng năng, chuyên cần tu tập, duy trì sự tỉnh thức thường xuyên là những nhân tố quan trọng để thành tựu đạo quả. Niết bàn là sự giải thoát khỏi tất cả những ràng buộc, phiền não, khổ đau, là ánh sáng phá tan bóng tối si mê để chấm dứt khổ đau của luân hồi sanh tử. Việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống rồi, hành giả thong dong, tự tại làm đẹp cuộc đời bằng cách dấn thân phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán với tinh thần vô ngã, vị tha.

Bản hoài của chư Phật là muốn cho chúng sinh được hoàn toàn giác ngộ và giải thoát; muốn vậy ta phải siêng năng, tinh cần gạn lọc thân tâm, phải kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động, không để cho chúng phát sinh trái phép. Người mới tu thì chăn giữ con khỉ ý thức của mình bằng 2 loại thiền Chỉ và Quán. Cái gì nương vào một chỗ thì ta gọi là chỉ, như niệm Phật hay quán hơi thở chẳng hạn. Quán là dùng nhận thức của mình xem xét, soi rọi để thấy rõ thân này và vạn vật luôn vô thường biến đổi. Thân thì 4 chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành nên phải sinh-già-bệnh-chết. Vũ trụ, thiên nhiên thì thành-trụ-hoại-không. Cho nên, không có cái gì là thực thể cố định cả.

Trong đạo Phật có hai loại thiền Chỉ và Quán là phương pháp đối trị ban đầu. Chỉ nhiều thì được định. Nếu không có trí tuệ soi sáng thì hành giả dễ rơi vào si định. Quán nhiều sinh trí tuệ nhưng ta lại lăng xăng, không định tĩnh. Mỗi hành giả ứng dụng hai pháp Chỉ, Quán này thuần thục rồi thì ta quay lại pháp trung đạo, dùng tính biết sáng suốt của mình nương nơi mắt thấy biết rõ ràng mà không phân biệt đẹp xấu, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Đó là phước đức lớn nhất.

AN NHIÊN TỰ TẠI TRƯỚC CUỘC ĐỜI

Phương pháp thứ mười là:

Làm việc cùng mọi người,

Tâm không hề thay đổi.

Não phiền dứt, an nhiên,

Là phước đức lớn nhất.

Với tâm giải thoát tự tại, hành giả an nhiên, bất động trước vô vàn biến động của cuộc đời như được mất, khen chê, tốt xấu, khổ vui, mà tự tại vào ra trong sanh tử để cứu độ chúng sinh. Làm đẹp cuộc đời, trang nghiêm đạo pháp như là tâm nguyện của các vị Bồ tát, đây không chỉ là phước đức vẹn toàn cho một người mà tất cả chúng sinh cần phải biếp áp dụng, hành trì. Nhờ vậy, con người được nâng cao trình độ hiểu biết, xã hội giảm bớt tệ nạn xấu ác, cá nhân được tăng trưởng phước đức, gia đình sẽ sống trên thuận dưới hòa, và nhân loại được sống trong bình yên, hạnh phúc.

Thật rõ ràng xuyên suốt nội dung bản kinh, Thế Tôn chỉ dạy cách thức làm phước và chuyển hóa nội tâm mà không hề có chuyện xin xỏ phước đức. Cho nên, trong đạo Phật có chủ trương cầu nguyện, mà tuyệt đối không có cầu xin ban phước, giáng họa. Ta mỗi ngày có quyền cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được sống bình an, hạnh phúc, cùng nhau chia vui sớt khổ, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Đức Phật là vị thầy dẫn đường, chỉ dạy cho ta biết được điều hay lẽ phải, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời, còn làm được hay không là do ta, ta phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. Khi mê thì Phật độ, khi biết được nguyên nhân dẫn đến luân hồi sinh tử thì ta phải tự tu tự độ. Phật không trực tiếp ban phước cho ta được bình yên, hạnh phúc. Ngài chỉ dạy phương pháp để chuyển hóa rồi chúng ta phải tự thực tập, hành trì để tạo ra phước đức vẹn toàn cho bản thân.

Mong ước được sống an vui, hạnh phúc chính là một sự phát nguyện vun bồi phước đức tự thân, được thể hiện qua sự chuyển hóa từ 3 nghiệp thân-miệng-ý theo hướng thiện lành, tốt đẹp. Do đó, bình an và hạnh phúc có thể tạo dựng ngay tại đây và bây giờ mà chẳng phải tìm cầu đâu xa. Phước huệ song tu là con đường dẫn đến thành Phật viên mãn. Tu phước không tu huệ, kiếp sau tuy giàu có nhưng lại bị ngu si. Tu huệ không tu phước, kiếp sau tuy thông minh nhưng lại bị nghèo khó. Phước huệ đều song tu thì thành Phật trong tương lai.

Cho nên, trong đạo Phật có 3 mục đích để chúng ta hướng đến tùy theo tâm tư, nguyện vọng của mọi người mà ta có quyền chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh sống trong hiện tại. Mục đích thứ nhất là sống trong cõi Trời Người có phước báo, chấp nhận có khổ có vui mà cùng sống chung với mọi người. Mục đích thứ hai là thoát khỏi luân hồi sinh tử để được Niết bàn an vui vĩnh viễn. Mục đích thứ ba là giáo hóa chúng sinh để được thành tựu phước trí viên mãn, hay còn gọi là phước huệ song tu, đó là con đường hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.

Người cư sĩ bước đầu cần tu phước trước để ổn định đời sống gia đình, khỏi phải bận bịu lo toan cơm áo gạo tiền, nhờ vậy ta có thời gian quán chiếu, tham thiền. Gia đình là nền tảng của xã hội, không có gia đình thì xã hội cũng phải phế bỏ, nên tùy theo hoàn cảnh của mọi người mà ta biết áp dụng phước huệ song tu sao cho được vuông tròn, tốt đẹp. Ngày xưa có vị thầy giới luật trang nghiêm, tu hành tinh tấn, không lơ là giải đãi một ngày, do đó đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì chỉ siêng tu trí tuệ cho riêng mình mà không giúp đỡ một ai, trong khi thầy đã thọ nhận của đàn na tín thí quá nhiều; do nhân quả như thế nên hiện đời thầy sống trong thiếu thốn, mỗi ngày chỉ khất thực được chút ít sống qua ngày. Bởi nghiệp lực quá khứ không gieo trồng nhân chia sẻ nên quả báo hiện đời không bao giờ có một ngày no đủ. Cho nên, nhân quả rất công bằng và bình đẳng, gieo nhân nào thì gặt quả nấy là vậy. Ngày nay, các Phật tử đến chùa ít ai có lòng tin nhân quả sâu sắc, mà chỉ một bề cầu xin thì nhiều. Cho đến bây giờ, tập tục cúng sao giải hạn ở các chùa vẫn cứ thịnh hành, vì quý thầy quá từ bi sợ Phật tử bỏ chùa không đến ủng hộ. Đại đa số Phật tử đến chùa cầu xin Phật, Bồ tát gia hộ nhiều hơn mà không biết gieo nhân nào để được gặt quả tốt.

Cũng đồng với vị thầy nói trên, một người bạn vì ham làm phước với quan niệm mong được giàu có để hưởng thụ mọi nhu cầu cần thiết, nên hiện tại bị đọa làm con voi trắng trong cung vua. Voi ta được trang sức lộng lẫy bằng thất bảo, chỉ để chở nhà vua và hoàng hậu đi mà thôi. Cuối cùng, một người nhờ có trí tuệ mà được giác ngộ giải thoát, nhưng vì không giúp ai nên cả đời đều chịu khó khăn, thiếu thốn. Người kia vì ham làm phước mà không chịu siêng tu trí tuệ, nên bị đọa làm con voi trắng trong cung vua. Chính vì thế, Phật dạy chúng ta phước huệ song tu để đi theo con đường Bồ tát đạo mà cùng nhau chia vui, sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha.

PHƯỚC HUỆ SONG TU VIÊN MÃN

Sau khi Phật chỉ dạy 10 phương pháp để hành trì phước đức viên mãn, cuối cùng Phật khẳng định:

             Ai sống được như vậy

             Ở đâu cũng hạnh phúc

             An nhiên và tự tại

             Vì phước đức vẹn toàn.

Muốn được như thế thì mỗi hành giả phải phước huệ song tu. Làm phước để có cơ hội giúp đỡ mọi người, tu huệ để biết cách chuyển hóa 3 nghiệp tham-sân-si làm tổn hại người và vật thành vô lượng trí huệ, từ bi với tinh thần vô ngã, vị tha.

Để cho dễ hiểu, chúng tôi tạm thời phân ra làm hai vế phước đức và công đức. Làm phước là việc làm đóng góp, giúp đỡ bên ngoài về phương diện vật chất từ lời nói cho đến hành động. Công đức là cái tốt do tu tâm, khi làm việc giúp đỡ người khác mà ta bị bêu xấu, hủy nhục, nhưng vẫn bình tĩnh, thản nhiên, không hề có ý niệm phiền muộn phát khởi trong tâm. Ta nghe những lời chỉ trích vu khống đó như gió thoảng qua tai. Chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ cả hai mặt phước đức, ta cần phải có tâm làm lợi ích cho người, và khi làm tâm ta không hề dính mắc vào việc gì. Đây là con đường của các vị Bồ tát đang ứng dụng và hành trì để được thành Phật trong tương lai. Nhờ vậy, ta lần hồi gội rửa bớt tâm tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, tâm ganh ghét, tật đố, tị hiềm, sân hận, tâm si mê, bám víu vào cái ta không thực thể.

Trên thực tế, ta dường như thấy phước và đức tách biệt hẳn nhau, nhưng sự thật người có tâm hồn cao thượng mới dám bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia và ngược lại. Khi làm việc phước mà ta không chấp trước, dính mắc vào việc làm đó vì đã thanh lọc được tâm tư trong sạch, nên làm mà không thấy mình làm, tu mà không thấy mình tu, chỉ tùy duyên tùy thời mà làm phước tu tâm. Chính vì sự liên hệ mật thiết của việc làm phước và tu tâm giúp các vị Bồ tát ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình, làm phước để có cơ hội giúp đỡ người, tu tâm để chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Ta muốn thành Phật thì không có con đường nào khác hơn là làm phước và tu tâm; nhờ vậy khi bố thí cúng dường ta chuyển hóa được tâm ích kỷ, tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, tâm sân hận, si mê được giải trừ, để tâm từ bi, hỷ xả được lan tỏa khắp mọi nơi. Việc làm phước và thanh lọc nội tâm rất cần thiết cho hàng Phật tử chúng ta tùy theo hoàn cảnh của mọi người mà chúng ta biết cách áp dụng sao cho phù hợp, để phước và đức của tự thân ngày càng được tăng trưởng.

Ở đây, Phật chỉ dạy chúng ta rất cụ thể, rõ ràng. Trước tiên, ta muốn tu tâm dưỡng tính thì phải biết thân cận người hiền, lánh xa kẻ xấu ác, tôn kính bậc đáng kính. Kế đến, ta biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành, tốt đẹp; hay siêng năng học hỏi và giỏi nghề nghiệp chuyên môn nhờ biết gìn giữ đạo đức từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động đều hướng thượng; biết hiểu thảo với cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính, thích hợp; rồi đến sống vui vẻ, biết bố thí, giúp đỡ bình đẳng, không phân biệt mọi thành phần giai cấp trong xã hội; muốn vậy ta phải siêng năng làm các việc lành, tránh xa việc xấu ác, nhờ đó ta không say sưa, nghiện ngập, nên lúc nào cũng khiêm tốn, thấp mình học hỏi điều hay, lẽ phải; nhờ thông hiểu Phật pháp, ta biết “muốn ít biết đủ”, hài lòng với hoàn cảnh hiện tại và luôn nhớ ơn thầy tổ mà ráng cố gắng duy trì phước huệ song tu để thành tựu Phật đạo viên mãn.

Bất cứ tông phái nào trong đạo Phật cũng đều phải phước huệ song tu và hành Bồ tát đạo cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi. Mỗi hành giả đều có sự hiểu biết chân chính như thế thì con đường tu học và dấn thân làm việc của mình sẽ đi đúng lời Phật dạy là phước huệ song tu.


ĐPNN

 


« Quay lại

BÌNH LUẬN




© Copyright 2020 Tintuc.OHO.vn, All right reserved
® Organize Vietnam Media & Trade Event
© Ghi rõ nguồn "Tintuc.OHO.vn" khi phát hành lại thông tin từ website này.
® Cơ quan chủ quản: Tổ chức sự kiện và truyền thông Việt Nam