Khác
với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ
thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý
do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật
chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử
nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn
(như dòng họ thế tục ngoài đời).
Một
đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp
tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào
trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với
trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy
ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350
triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh
hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.
Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật:
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
- Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.
- Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế
định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong
quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ
tử xuất gia.
- Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng
vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất
nhiều những trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất nhiều các
lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học được
truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì
chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.
* Giáo lý:
Giáo
lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống,
không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà
hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn
cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000
pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống
yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).
Lý Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại -
Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại
một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến,
ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao
nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại
trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân - duyên, trong đó
nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ,
là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân
và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không
một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều
duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi
sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp - tan của các
nhân - duyên có trước để tạo ra nhân - duyên mới, Phật giáo gọi đó là
tính “trùng trùng duyên khởi”.
Về
con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành -
Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy
luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra,
lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong).
Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo
không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản
phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự
xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người
đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân - duyên ở đây được Phật
giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là
sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô
minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái;
9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của
"Hành", Hành là duyên của "Thức", Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc
là duyên của "Lục nhập", Lục nhập là duyên của "Xúc", Xúc là duyên của
"Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ là duyên của
"Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là duyên của "Lão tử". Phật giáo
cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là
quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi
nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu
theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không
biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con
người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện
tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề
cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu,
gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau
khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ
hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ
làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những
nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi
thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là
không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ
luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn
đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là
"có"; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là "không".
Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân
duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống
của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc
đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ
cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực
hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người
và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự
vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc
sống.
Tứ diệu đế
Khi
còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó
Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại đau
khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn
nguyên nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật
đã đem kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh
thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức
Phật nói ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn
hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của
Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ
diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh
điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Đức
Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những
điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành 8 loại khổ
(bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);
+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);
+ Bệnh (đau ốm là khổ);
+ Tử (chết là khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);
+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);
+
"Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ
ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại
của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất
tình, lục dục lôi cuốn… làm cho khổ sở).
Đức
Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan mà
trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống
để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn
mà điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải
quyết cho tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên
nhân nỗi khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người
bị khổ đau), đó là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn
(kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu biết
không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng, mê tín dị đoan…),
kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm theo lời răn
cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính ngay trong con người và
gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.
- Diệt đế: Đức
Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ
hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt cái
nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế:
là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt
khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết
rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt
đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực
hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng thêm đau khổ. Do
đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn cơ của
chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho phù
hợp với bản thân mình.
Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ
đến): quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ
thị khổ.
- Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu
hành): tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt
trừ những điều ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa
phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
-
Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển): Dục
như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.
- Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành
thành tựu đạo quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm,
định, xả.
- Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế
để tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính
tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm
và chính định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính
đạo được coi là pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn
cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là
giúp người ta tu dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ
đau, phiền não, bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
* Giáo luật
Giáo
luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều
hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng
đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ
xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải
thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
+ Không sát sinh;
+ Không nói sai sự thật;
+ Không tà dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
- Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10
giới. Ngoài ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải
giữ thêm 5 giới nữa là:
+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.
+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.
+ Không giữ vàng bạc.
+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.
- Đối với Phật tử tại gia:
Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật
tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất
chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến
trên con đường giải thoát, an lạc.
Ngoài
ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8
giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy
định nữa:
+ Không trang điểm
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không xem nghe ...).
+ Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người
trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh
thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):
+ Thân hòa đồng trụ
+ Giới hòa đồng tu
+ Khẩu hòa vô tranh
+ Ý hòa đồng duyệt
+ Kiến hoà đồng giải
+ Lợi hòa đồng quân
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng
với truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương
Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không
nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống
của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.
* Lễ nghi
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới
người sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản
và đồng nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia
thành nhiều tông phái và du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng
cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có
sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch):
- Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát
- Ngày 14/7: Lễ Tự tứ
- Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết dân tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn
kết, hữu nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp
thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi
theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức
Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật
thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá - tôn giáo quốc
tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên
hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.
PGVN