(Tintuc.OHO.vn) Phật dạy rằng: “Có
hai hạng người cao quý nhất ở đời. Một là chưa từng phạm tội
lỗi, hai là người đã phạm tội lỗi nhưng biết ăn năn Sám hối
không tái phạm nữa”.
Nếu như ở
xã hội, mọi người đã xem đạo đức xin lỗi là một văn hóa quan
trọng không thể thiếu trong đời sống giữa con người với nhau,
thì trong đạo Phật thì nó vẫn còn thua kém xa hằng vạn lần
với pháp Sám hối. Vì sao? Phật dạy rằng: “Có hai hạng người
cao quý nhất ở đời. Một là chưa từng phạm tội lỗi, hai là
người đã phạm tội lỗi nhưng biết ăn năn Sám hối không tái
phạm nữa”. Trong thực tế thì ở hạng người thứ nhất chỉ có ở
những bậc Thánh, còn chúng ta là phàm phu thì việc mắc lỗi
lầm là việc rất thường tình, có điều họ có nhận thức được
sai cái sai của mình không? Có đủ can đảm giáp mặt với nó để
sửa đổi không? Đó mới là căn bản quan trọng nhất. Kinh Pháp Cú
có dạy: Người có lỗi lầm mà biết sám hối, người đó là ánh
sáng chiếu cõi thế gian, là vầng trăng ra khỏi mây mù. Đây là
điều thiết yếu trong pháp Sám hối, bởi có nhận thức được lỗi
lầm của mình thì mới biết sửa lỗi để dừng tội, ngược lại
nếu vô minh, cố chấp thì sẽ vô tư tiếp tục tạo tội như trong
Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Phật dạy: “Người có lầm lỗi mà không
tự sám hối để mau chấm dứt tâm tội ấy, thì tội lỗi ngày
càng chồng chất vào thân như nước chảy về biển dần dần trở
nên sâu rộng”…
Chíngh từ những ý nghĩa sâu sắc
và có công năng tuyệt vời như vậy mà sám hối được xem là một
danh từ riêng, một thuật ngữ dùng trong đạo Phật, là một trong
những pháp tu tập tối quan trọng không thể thiếu cho cả hai hệ
phái Nguyên thủy và Đại thừa. Nếu như Phật giáo Đại thừa
chọn hai ngày giữa và cuối tháng để làm ngay sám hối chung cho
cả hai giới. Tại gia và xuất gia bằng nghi lễ lạy Hồng danh
Phật. Thì Phật giáo Nguyên thủy dùng phương pháp quán sát ba
nghiệp của mình làm pháp Sám hối để tu tập.
Trên hình thức tuy hai cách Sám
hối có khác nhau, nhưng đều có chung nhau ở một điểm là đều
lấy ý nghiệp làm nến tảng cho việc sám hối. Nghĩa là đem ý
nghiệp là nguồn gốc căn bản của nghiệp thiện và bất thiện.
Vì ý thức về tội lỗi trong đạo
Phật được nhìn nhận một cách cụ thể qua nền tảng của một con
người. Đó là thân, miệng, và ý để tạo thành mười nghiệp ác
hay mười nghiệp thiện. Nên ta thành tâm Sám hối là thành tâm
chuyển ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện. Đây cũng là
điểm khác biệt về ý nghĩa pháp Sám hối của đạo Phật với
các ngoại đạo khác vì họ chỉ chú trọng về hình thức chuộc
tội bên ngoài. Nhưng mọi tội lỗi điều do ba nghiệp mà sán, cò
thể mới thay đổi được tận gốc rễ của tội lỗi , chứ không
phải chỉ khấn vái, cầu mong đấng thần linh nào xóa tội cho ta.
Cho nên mới có bài kệ ta vẫn tụng trong các khóa lễ Sám hối:
“Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý mà sinh ra
Tất cả, con nay xin Sám hối”.
Chính do ta đã tạo bao nghiệp ác
nên muốn chuyển được nghiệp lành thì ta phải tích cực làm
việc phước thiện để làm nhân mà dừng tội cũ không phạm tội
mới.
Chứ ta đừng nghĩ rằng có tội,
Sám hối xong là Sanh tội không phải trả quả báo! Hiểu như vậy
là sai vì như vậy là trái với luật nhân quả. Ví như nếu ta
phải ănm trọn một năm mới đó bỏ vào một tô nước thì uống sẽ
dễ chịu hơn, nếu bỏ vào một tô nước thì uống sẽ dễ chịu hơn
chút nữa và nếu như bỏ vào cả một hồ lớn nước thì chắc
chắn là không còn vấn đề gì nữa.
Nắm muối tượng trưng cho “tội
lỗi”, còn nước trong tô, trong lu, trong hồ tượng trưng cho “phước
báo” ít hay nhiểu. Vì vậy, chính nhờ làm việc thiện lành nên
có phước báo để bù đắp, hóa giải những quả báo phài trả.
Ví như người có tiền tiết kiện để dành co thể đem trả nợ
hoặc trừ bớt nợ xưa vậy.
Trở lại với hình thức Sám hối
khác nhau của hai hệ phái, nhưng cùng một ý nghĩa tu tập thì
ta cần phải liên hệ phái đến tinh thần giáo dục của hai hệ
phái. Đối với Phật giáo Đại thừa là một tinh thần giáo hóa
mở rộng cho tất cả mọi đối tượng trong xã hội, cho nên không
thể sử dụng hình thức chuyên sâu, suy luận cao mà phải áp dụng
hình thức hình thức đơn giản, thông qua những lể nghi tín
ngưỡng quen thuộc để gửi gắm một đạo lý sâu xa trong đó làm
phương tiện khuyên răn con người bỏ ác làm lành, hướng về nẽo
thiện. Đây là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa xem trọng về
hình thức lễ lạy. Ngược lại ở Phật giáo Nguyên thủy thì đơn
giản hơn vì những đối tượng Phật giáo hóa đều là những vị
đã xuất gia, có căn cơ cao, chỉ mục đích tu duy nhất là sự
chứng được sự giác ngộ giải thoát. Do đó không cần phải lòng
vòng hình thức mà trực tiếp đề cập đến phương pháp chín của
vấn đề là vậy.