Tintuc.OHO.vn - Nếu quý vị chỉ mong chờ gặp thân xác mà không nghĩ đến
tâm thức thì quý vị không bao giờ gặp lại người đó trong thân xác cũ,
song giữa thân xác và tâm thức thì tâm thức sẽ nương trú ở trong một
thân xác mới và chúng ta sẽ còn gặp lại nhau hoài hoài cho đến khi vượt
thoát sinh tử.
Theo
cách nhìn thế tục, quan điểm này không sai. Song theo lăng kính của một
bậc hành giả đã chứng ngộ tính không, điều này hoàn toàn sai lầm. Tính
không trong Tạng ngữ gọi là Tong-pa-nyi. Tong-pa nghĩa là “tính không”
và nyi nghĩa là “chỉ”, cụm từ này cắt đứt khái niệm rỗng không theo
nghĩa thông thường, tức là sự rỗng không hàm ý trống không như cái ly
trống rỗng, không chứa trà, cà phê hay sinh tố sữa bên trong, hay của
cái bao tử trống không có thức ăn.
Nghĩa rỗng không này là nghĩa thông thường, không có gì phải bàn luận ở
đây cả. Tính rỗng không mà chúng ta đang đề cập ở đây là Tong-pa-nyi
trong Tạng ngữ, thầy không chắc âm nyi có phải là một chữ trong tiếng
Sankrit không. Tuy vậy, trong tiếng Tạng, chữ nyi trong tong-pa-nyi chặt
đứt mọi trống không mang nghĩa thông thường.. .
Loại rỗng không đó là gì? Đó là loại tính không hàm chứa sự vắng mặt của
một cái “tôi” tồn tại chắc thật vốn chưa từng bao giờ hiện hữu từ vô
thủy sinh tử, chứ không phải sự vắng mặt của một “cái tôi”. Cái “tôi”
tồn tại chắc thật chưa từng bao giờ hiện hữu và sẽ không bao giờ hiện
hữu trong hiện thực, tuy nhiên cái tâm mê mờ của chúng ta lại chắc tin
nó thực có. Chính vọng chấp này, vô minh này là cội rễ của sinh tử luân
hồi.
Denma Locho Rinpoche và Pabongka Dechen Rinpoche cũng đã từng nhắc về
điều này. Trong tác phẩm Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận - Lamrim Chenmo, sinh
tử luân hồi được định nghĩa là“một phần của dòng tương tục của các uẩn
cấu uế do nghiệp và vọng tưởng sinh ra.” Tại sao bộ luận này lại nói là
“một phần”? Bởi vì luân hồi sinh tử không bao gồm những vị đại hành giả
đã chứng đắc con đường tu tập
(ND: còn gọi là “tu học đạo”), giai đoạn thứ tư trong trình tự năm giai
đoạn tu bao gồm: Tư lương đạo, gia hành đạo, kiến đạo, tu học đạo và vô
học đạo.
Các uẩn thân và tâm của những vị hành giả này không còn quay lại sinh tử
vì họ đã chứng ngộ sự tịch diệt, gột sạch những mầm mống của vọng tưởng
và nghiệp lực, vì vậy không còn hiện hữu dòng tương tục (của tâm thức).
Họ không còn quay lại luân hồi dưới tác động của nghiệp và vọng tưởng
nữa. Điều này diễn ra khi giai đoạn tu học đạo đã thành tựu, đó là lý do
vì sao Tổ Song Khapa nói rằng sinh tử luân hồi là một phần của những
hợp uẩn do nghiệp và vọng tưởng dẫn dắt.
Khi các uẩn còn chịu tác động của nghiệp và vọng tưởng thì sẽ có sinh tử
luân hồi, nhưng khi nghiệp và vọng tưởng ngưng dứt thì không còn lăn
trôi trong sinh tử nữa. Do vậy, những trường hợp của các đại hành giả
được loại trừ. Cả thầy Denma Locho Rinpoche và thầy Pabongka Dechen
Rinpoche đều đề cập như vậy.
Nhìn chung, hạng phàm phu chúng ta sẽ phải đi tái sinh vì dòng tương tục
của những hợp uẩn cấu uế do nghiệp và vọng tưởng dẫn dắt. Đó là sinh tử
luân hồi. Vòng tái sinh này là một định nghĩa ngặt nghèo của luân hồi.
Những hợp uẩn này là bản chất của khổ đau vốn bị chướng ngại, nghiệp lực
và vọng tưởng chi phối dẫn dắt do nhận thức sai lầm, Tạng ngữ gọi là
nyon-mong-pa, cái khiến tâm ta bị mê mờ che chướng. Chức năng vận hành
của nó là che chướng tâm. Thay vì khai mở tâm, nó che mờ tâm, tựa như
một căn phòng tối bị đóng chặt không có ánh sáng bên ngoài rọi vào.
Điều thầy cố gắng giải thích ở đây là trong cái thấy của phàm phu, thậm
chí ngay cả trong đầu óc khoa học của người Tây phương, đời người phải
có bám luyến, phải có sân hận, có vô minh, con người ta là phải vậy. Làm
sao có thể có một đời sống không bám luyến? Không thể có! Họ chưa từng
kinh nghiệm một đời sống thiếu vắng sự bám luyến, cái bám luyến không
phải để thức tỉnh tâm thức con người mà để che chướng. Thay vì mang đến
giải thoát cho tâm, bám luyến cứ dính chặt vào phúc lạc và sự thoải mái
sung sướng của đời này. Lời dạy của Đại sư Long Thọ là vậy.
Vì bám luyến như thế, chấp thật như thế, dính mắc như thế, làm sao chúng
ta có hạnh phúc chân thực! Dễ thấy rằng, còn bám luyến mạnh mẽ thì
không thể thực sự vui hưởng hạnh phúc và bám luyến càng kiên cố, hạnh
phúc càng ít ỏi.
Nếu kiểm tra tâm mình, quý vị sẽ thấy chẳng hề có chút an vui. Không có
chứng ngộ trong tâm cũng không có an lạc nội tại trong đời. Tâm chấp bám
càng kiên cố bao nhiêu thì càng khổ sở phiền não bấy nhiêu. Rồi khi
không có được cái mình mong cầu, khi đối tượng bám luyến gặp phải trắc
trở, chẳng hạn như một người thân qua đời, thật quá chừng đau khổ sầu
não.
Chẳng hạn như có một cặp vợ chồng chung sống bao năm nay, rồi người
chồng qua đời. Đối với người vợ, coi như chẳng còn nơi nương dựa nữa,
chẳng còn ai trên đời này nữa, chỉ có người chồng này mà thôi. Từ khi
thế gian này tiến hóa, chẳng có một ai trường sinh bất tử cả. Người có
trí ai cũng hiểu như vậy.
Nếu quý vị hỏi người điên thì là chuyện khác nhưng nếu hỏi người tỉnh
táo thì đều biết người ta chẳng ai sống mãi, rằng chẳng ai sống hoài
không chết, dù ở Tây Tạng, ở châu Mỹ hay châu Phi, chẳng ở đâu cả. Nhưng
khi người chồng qua đời đột ngột hay chết dần dần từng khoảnh khắc thì
đối với người vợ sẽ chẳng còn ai nữa, bà ấy chẳng còn ai để nương nhờ
nữa. Và dù lão niên hay chưa, bà cũng có thể qua đời vài ba tháng sau vì
không thể sống thọ sau cái chết của người chồng. Thầy nghe chuyện này
xảy ra ở nước Mỹ, không phải tất cả trường hợp đều thế nhưng nhìn chung
là như vậy.
Một đơn cử khác là khi một đứa trẻ được cha mẹ cưng quý yêu thương qua
đời. Có một sự bám luyến mạnh mẽ vào “con của tôi”, nhưng rồi đứa trẻ ra
đi. Bản chất của các sự vật hiện tượng là vậy. Thứ gì có sinh ra thì
phải chết đi, kể cả cỏ cây và đương nhiên con người ta cũng thế. Chẳng
thứ gì tồn tại vĩnh viễn. Hội ngộ rồi chia ly. Trong gia đình cũng giống
như vậy.
Sự liên đới về nghiệp trong gia đình thật là thú vị. Khi nghiệp trổ quả
đời này dẫn dắt ta gặp lại người nọ người kia nay lại là thân bằng
khuyến thuộc, trong khi mối quan hệ của ta với họ có thể hết sức khác
biệt trong các kiếp trước đó. Người chồng đời trước của quý vị có thể
thành con của quý vị bây giờ và đôi khi đứa trẻ kia trong những đời quá
khứ có thể là vợ hoặc là kẻ thù của quý vị. Đứa trẻ cũng có thể trở
thành người mẹ, quý vị lại thành người cha, người mẹ hoặc là kẻ thù. Có
rất nhiều khả năng kết hợp như vậy.
Trong đời này, gia đình quý vị - cha mẹ, anh chị em, chỉ ở trong cương
vị của họ trong một quãng thời gian ngắn ngủi, đây chỉ là những mối quan
hệ ngắn ngủi. Trong môt thời đoạn vài chục năm thì mọi thứ sẽ đổi thay
trở lại và ở kiếp sống vị lai kế tiếp, người cha có thể thành người vợ,
con gái lại thành người chồng, bằng hữu chuyển thành kẻ thù.
Cứ đổi thay như thế từ kiếp này sang kiếp khác. Không phải chỉ một lần,
quý vị đừng nghĩ như thế, mà từ vô thủy sinh tử, trong quan hệ của chúng
ta với tất cả các chúng sinh khác là vậy. Mọi người trên thế gian này,
từng người một, toàn bộ nhân loại, các loài động vật, ngạ quỷ, súc sinh,
chư thiên, A tu la v.v… tất cả chúng ta đều có mối liên hệ với tất cả
mọi loài chúng sinh từ vô thủy sinh tử luân hồi.
Chính chúng ta đã từng là kẻ thù, là chồng, là vợ, là con cái của họ,
hết thảy các mối liên hệ từ vô thủy sinh tử với mọi loài chúng sinh. Như
giáo pháp đã từng đề cập, chúng ta đã từng là bạn, thù, vợ chồng, con
cái vô lượng vô số lần và chừng nào còn trong sinh tử, quý vị còn tiếp
tục thành bạn, thù, chồng vợ, con cái của họ cũng như họ sẽ thành bạn,
thù, chồng vợ, con cái, cô dì chú bác của quý vị. Chúng ta diễn những
vai khác nhau trong những kiếp sống khác nhau.
Vì vậy, nếu có một người thân trong gia đình qua đời mà quý vị nghĩ rằng
mình sẽ không bao giờ gặp lại họ là hoàn toàn sai lầm. Lo lắng cũng
hoàn toàn vô ích, không giúp được gì cả. Nếu có một hướng để giúp đỡ
người đó thì hãy giúp họ thoát đọa khổ đau của những cõi thấp, song giúp
họ giải thoát khỏi khổ sinh tử lại là một lẽ khác.
Đây không phải là dị đoan mê tín, không chỉ là tín tâm mà là một pháp
hành chân thực và có lý trí. Nếu có phương cách nào đó để giúp đỡ thì
đương nhiên chúng ta phải giúp, nhưng nếu chỉ nơm nớp lo lắng mình không
được gặp lại họ nữa thì thật hoài công vô ích. Điều này chỉ khiến quý
vị thêm trầm uất. Rồi từ lo lắng trầm uất lại sinh tâm phiền não, gây
thêm bệnh ung thư và các bệnh tật khác nữa cho tinh thần và thể xác, vậy
là quý vị không làm gì tự lợi hay lợi tha cả.
Trong tác phẩm Nhập Bồ Đề Hành Luận, ngài Tịch Thiên đã dạy rằng:
Sự việc nếu vẫn còn phương cứu chữa,
Chẳng lý do gì tâm lại không vui.
Còn nếu thật sự vô phương cứu chữa,
Thử hỏi không vui liệu có ích gì? (1)
Thử hỏi mong muốn ngôi nhà mình ở dát kim cương hay vàng ngọc đá quý để
làm gì? Sao phải lo lắng thái quá về những việc không thể xảy ra. Thật
là vô nghĩa. Biết lo lắng thật vô nghĩa, biết nó chẳng ích lợi gì thì
quý vị nên bỏ lo lắng đi. Rồi bình yên sẽ đến. Điều thầy muốn nói là lo
lắng chẳng có lợi lạc gì.
Chừng nào còn trôi lăn trong sinh tử, chừng nào còn chưa thoát khỏi luân
hồi, chúng ta sẽ còn tiếp tục liên hệ với mọi chúng sinh. Tất cả những
chúng sinh đã từng là cha mẹ, anh em hay vợ chồng của chúng ta. Họ là
những đứa con đã lìa đời và những người đã ra đi sẽ có những mối liên hệ
khác nhau với chúng ta trong những kiếp khác. Thân xác có thể khác đi
nhưng dòng tương tục của tâm thức sẽ không thay đổi.
Nếu quý vị chỉ mong chờ gặp thân xác mà không nghĩ đến tâm thức thì quý
vị không bao giờ gặp lại người đó trong thân xác cũ, song giữa thân xác
và tâm thức thì tâm thức sẽ nương trú ở trong một thân xác mới và chúng
ta sẽ còn gặp lại nhau hoài hoài cho đến khi vượt thoát sinh tử.
(1): Theo bản dịch Nhập Bồ Đề Hành Luận do Hồng Như chuyển Việt ngữ.